Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Vịnh Hạ Long 4 Dàn Ý &Amp; 18 Bài Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8 được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Efjg.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Vịnh Hạ Long thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh, được hình thành do sự vận động của đá và nước, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Mời các em cùng theo dõi bài viết để nhanh chóng hoàn thiện bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh của mình.
Dàn ý thuyết minh về Vịnh Hạ Long (4 mẫu)
Thuyết minh Vịnh Hạ Long ngắn gọn
Thuyết minh danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long
Thuyết minh về Vịnh Hạ Long hay nhất (16 mẫu)
1. Mở bài
Giới thiệu về Vịnh Hạ Long.
2. Thân bài
Vị trí địa lý: là vịnh nhỏ thuộc khu vực vịnh Bắc Bộ với đường bờ biển dài 120 km bao gồm nhiều đảo lớn nhỏ
Tổng diện tích: 434km2 với 775 hòn đảo, được bảo vệ bởi vùng đệm rộng lớn có diện tích 1.119km2.
Tên gọi: thay đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử
Truyền thuyết về Vịnh: Tương truyền khi đất nước bị xâm lăng nên Ngọc Hoàng đã sai mẹ con Rồng hạ phàm diệt giặc, giặc tan mẹ con Rồng ở lại trần thế và chỗ hai mẹ con gieo mình xuống đã hình thành nên vịnh.
Đặc điểm các đảo, hang động
Hệ thống sinh thái, sinh vật: hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, hệ sinh thái biển – đảo ven bờ
Giá trị lịch sử: Xuất hiện dấu tích của các nền văn hóa cổ cách đây hàng nghìn năm như văn hóa Soi Nhụ, văn hóa Cái Bèo và văn hóa Hạ Long.
Giá trị kinh tế: Là điểm điểm du lịch thu hút khách trong và ngoài nước
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của Vịnh Hạ Long
Quảng Ninh là một trong những tỉnh có nhiều di sản bậc nhất nước ta. Toàn tỉnh hiện có 632 di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh. Trong đó, có 5 khu di tích quốc gia đặc biệt (Vịnh Hạ Long, Bạch Đằng, Yên Tử, Khu di tích Nhà Trần tại Đông Triều và Đền Cửa Ông – Cặp Tiên). Trong đó, Vịnh Hạ Long là di sản nổi bậc nhất trong quần thể các di sản tỉnh Quảng Ninh.
Vịnh Hạ Long là vùng biển đảo ở phía Đông Bắc của Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh; phía Tây Bắc và Bắc kéo dài từ huyện Yên Hưng, qua thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả, đến hết phần biển đảo huyện Vân Đồn; phía Đông và phía Nam giáp Vịnh Bắc Bộ; phía Tây Nam giáp đảo Cát Bà (thành phố Hải Phòng).
Theo các nhà khoa học, vùng Hạ Long và vùng rìa bờ, đảo phụ cận của vịnh, bao gồm nhiều hệ tầng trầm tích lục nguyên và Cacbonat, có tuổi từ nguyên đại Cổ sinh đến Tân sinh. Nhiều hệ tầng trầm tích ở khu vực này chứa đựng các vết tích cổ sinh vật dưới các dạng hoá thạch khác nhau, trong đó có những nhóm ngành động, thực vật đã tuyệt diệt hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn trên trái đất.
Thạch nhũ trong hang động trong khu Vịnh có tuổi trẻ hơn các hang động. Nước mưa theo các khe nứt trên trần hang động và vách chảy xuống, trên đường đi chúng hoà tan, bào mòn đá vôi và lắng đọng thành nhũ đá ở trần, măng đá ở nền…
Với bàn tay kiến tạo tài tình của thiên nhiên, Vịnh Hạ Long hiện lên với vẻ đẹp rực rỡ, kì bí bậc nhất nước ta. Hàng ngàn hòn đảo, hàng chục hang động đẹp đã tạo nên giá trị thẩm mỹ của Vịnh. Vẻ đẹp của Hạ Long được tạo nên từ 3 yếu tố: đá, nước và bầu trời. Hệ thống đảo đá ở Hạ Long muôn hình vạn trạng quyện với trời biển, tạo ra một bức tranh thủy mặc. Phía trong những đảo đá lớn lại hấp dẫn bởi những hang động đẹp đẽ, kỳ lạ. Hang Đầu Gỗ gợi cảm giác choáng ngợp, với những nhũ đá muôn hình dáng vẻ. Động Thiên Cung như một đền đài hoành tráng, mỹ lệ. Hang Bồ Nâu có cửa uốn vòng cung, với vô số nhũ đá buông xuống mềm mại như cành liễu. Hang Sửng Sốt đẹp đến bất ngờ, với nhũ đá mang hình hài của gà rừng, cóc, rồng, thác nước, cùng với nhiều hình hài khác, như mở ra một thế giới cổ tích. Những hang động như Tam Cung, Trinh Nữ, Ba Hang, Tiên Long,… mỗi hang có những vẻ đẹp độc đáo, kỳ thú.
Tổng số loài thực vật sống trên các đảo ở vịnh Hạ Long khoảng trên một nghìn loài. Một số quần xã các loài thực vật khác nhau đã được tìm thấy, như các loài ngập mặn, các loài thực vật ở bờ cát ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá, trên đỉnh núi hoặc mọc ở cửa hang hay khe đá.
Những kết quả nghiên cứu, khảo cổ học và văn hóa học cho thấy, sự hiện diện của những cư dân tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long từ khá sớm, đã tạo lập được những hình thái văn hóa cổ đại tiếp nối nhau, bao gồm văn hóa Soi Nhụ (trong khoảng 18.000 – 7.000 năm trước Công nguyên), văn hóa Cái Bèo (7.000 – 5.000 năm trước Công nguyên) và văn hóa Hạ Long (cách ngày nay khoảng từ 3.500 – 5.000 năm). Phương thức sống chủ yếu của chủ nhân Soi Nhụ là “bắt sò ốc, có cả hái lượm hoa quả, đào củ, rễ cây”, biết bắt cá mà chưa có nghề đánh cá.
Hiện nay, vịnh Hạ Long còn là một khu vực phát triển năng động, có tiềm năng lớn về du lịch, nhờ những điều kiện và lợi thế sẵn có ở khu vực vùng biển Đông Bắc Việt Nam nói riêng và miền Bắc Việt Nam nói chung.
Từ hơn 500 năm về trước, trong bài thơ “Lộ nhập Vân Đồn”, Nguyễn Trãi đã lần đầu tiên ca ngợi vịnh Hạ Long là “Kỳ quan đá dựng giữa trời cao”. Cùng với vịnh Nha Trang của Việt Nam, vịnh Hạ Long là một trong số 29 vịnh được Câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất trên thế giới xếp hạng và chính thức công nhận vào tháng 7 năm 2003.
Vịnh Hạ Long là khu vực có giá trị nổi bật toàn cầu, tiêu biểu nhất là các giá trị về thẩm mỹ, khoa học, lịch sử, khảo cổ… Năm 1962, khu vực vịnh Hạ Long được công nhận là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Năm 1994, vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới về giá trị thẩm mỹ và được tái công nhận lần thứ 2, với giá trị ngoại hạng toàn cầu về địa chất – địa mạo vào năm 2000 đã biến Vịnh Hạ Long đã thực sự trở thành thương hiệu của du lịch Quảng Ninh, là niềm tự hào của Nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh nói riêng, của cả nước nói chung và là điểm đến được lựa chọn hàng đầu của du khách trong nước và quốc tế.
Nước ta có rất nhiều những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Phong Nha – Kẻ Bàng, Sapa,…. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến Vịnh Hạ Long, nơi đây đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh. Nó được hình thành do sự vận động của đá và nước, là một tác phẩm nghệ thuật địa lí được hoàn thành sau hàng triệu năm biến đổi của địa chất. Vịnh Hạ Long giới hạn trong diện tích khoảng 1.553km² bao gồm 1.960 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi.
Được tạo thành là như vậy nhưng nơi đây gắn liền với những truyền thuyết xa xưa được dân ta kể lại, khi người Việt mới lập nước đã bị giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc.
Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang.
Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt.
Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và nơi đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ.Lại có truyền thuyết khác nói rằng vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm thành bức tường thành chắn bước tiến của thủy quân giặc.
Chỗ rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long.
Nói đến vịnh Hạ Long, ta không thể không nhắc đến vẻ đẹp mây trời cảnh sắc non nước hữu tình, những hòn đảo, dãy núi nhỏ xen kẽ nhau nhấp nhô trong làn nước xanh biếc mềm mại, tạo nên một bức tranh sống động, nên thơ.
Các đảo trên vịnh Hạ Long qua bàn tay khéo léo, sáng tạo của mẹ thiên nhiên mà mỗi đảo lại cho ta thấy được một vẻ đẹp riêng biệt, không đảo nào giống đảo nào.
Đảo thì giống như hình con cóc đang ngồi xổm giữa biển nước (Hòn Con Cóc), đảo lại có hình thù như một đôi gà, một trống một mái (Hòn Trống Mái), có đảo lại như một ông lão ngồi câu cá (Hòn Lã Vọng),… muôn hình vạn trạng. Không chỉ vậy, điểm thu hút bậc nhất của vịnh Hạ Long phải kể đến những hang động trải qua hàng ngàn, hàng triệu năm kiến tạo, khoác lên mình vẻ đẹp bí ẩn, lung linh gợi cho du khách sự tò mò muốn khám phá, tìm hiểu chúng.
Đầu tiên phải kể đến hang Sửng Sốt, nằm ở vùng trung tâm du lịch của vịnh Hạ Long, trong đảo Bồ Hòn, là hang động rộng và đẹp nhất vịnh Hạ Long, đường lên hang Sửng Sốt luồn dưới những tán lá rừng, với những bậc đá ghép cheo leo, khúc khuỷu.
Ðộng được chia làm hai ngăn chính, toàn bộ ngăn thứ nhất rộng thênh thang với trần hang được phủ bằng nhũ đá, những tượng đá, voi đá, hải cẩu, mâm xôi, hoa lá.
Ngăn 2 cách biệt với ngăn 1 qua một lối đi hẹp. Bước vào lòng ngăn này, động mở ra một khung cảnh mới khác lạ hoàn toàn với lòng ngăn rộng có thể chứa được hàng ngàn người. Trong lòng ngăn 2 của hang Sửng Sốt có những hình tượng được gắn với truyền thuyết Thánh Gióng: cạnh lối ra vào là khối đá hình chú ngựa, thanh gươm dài và trong lòng hang có những ao hồ nhỏ như vết chân ngựa Gióng.
Trên dãy đảo Bồ Hòn, có hai hang động mang một sự tích về một tình yêu trai gái nhưng không thành: Hang Trống và hang Trinh Nữ. Ấn tượng đầu tiên khi bước vào hang Trinh Nữ là hình ảnh bức tượng được làm bằng đá về một người con gái, nằm xõa mái tóc dài, mắt hướng ra khơi xa, đôi mắt gợi lên một nỗi buồn như đang trong chờ một điều gì đó nhưng tuyệt vọng.
Hang Trống Hang Trống nằm đối diện Hang Trinh Nữ, có hai cửa hang khá rộng và thông nhau theo hướng Đông – Tây qua 2 vách núi. Bên trong hang có những chùm thạch nhũ trắng bạc, rủ xuống lòng hang và còn có bức tượng chàng trai hóa đá đang quay mặt về phía Hang Trinh Nữ.
Tiếp đến là động Thiên Cung, nằm ở lưng chừng đảo Canh Độc, bước vào cửa động Thiên Cung lòng động đột ngột mở ra không gian có tiết diện hình tứ giác với chiều dài hơn 130 mét, với những măng đá như một đền đài mỹ lệ.
Vách động cao và thẳng đứng được bao bọc bởi những nhũ đá và trên mỗi vách động ấy thiên nhiên đã khảm nhiều hình thù kỳ lạ, hấp dẫn người xem.
Đó là 4 cột trụ to lớn giữa động mà từ chân cột tới đỉnh đều được chạm nổi nhiều hình thù kỳ lạ như chim cá, cảnh sinh hoạt của con người, hoa lá cành; là những thạch nhũ mang hình tượng Nam Tào, Bắc Đẩu, tiên nữ múa hát; là trần hang với những điêu khắc người, chim, hoa, muông thú đang dự tiệc, hoàn toàn do bàn tay nhào nặn của tạo hóa tác thành qua hàng vạn năm.
Cửa động nhỏ hẹp được giấu kín trong lòng núi nhưng càng đi vào bên trong, lòng động càng mở lớn và rộng, dẫn dắt người xem đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Cùng nằm trên đảo Canh Độc, ở vị trí gần nhất với động Thiên Cung là hang Đầu Gỗ , một hang động với những nhũ đá tráng lệ. Tên gọi Hang Đầu Gỗ gắn liền với một giai đoạn hào hùng của lịch sử, của thời đại Đông A, với chiến thắng của quân dân nhà Trần năm 1288, đánh bại hoàn toàn quân hiếu chiến Mông Nguyên sau ba lần mang quân xâm lược nước ta,mang lại hòa bình cho dân tộc.
Hiện các nhà khảo cổ còn tìm thấy rất nhiều khúc gỗ và mẩu gỗ vụn còn sót lại trong động.
Cửa hang Đầu Gỗ ở lưng chừng vách núi và trong lòng hang được chia thành 3 ngăn chính. Ngăn thứ nhất gồm hệ thống nhũ đá có nhiều hình ảnh quen thuộc với cuộc sống: sư tử, trăn, rùa, và thậm chí cả hình ảnh đôi gà chọi,….
Qua ngăn thứ nhất, vào ngăn thứ 2 bằng một khe cửa hẹp, bắt đầu bằng một bức tranh hoành tráng – hình ảnh những hòn đảo đá lô nhô trên sóng nước cũng được khắc hoạ rõ nét.
Ngăn thứ 3 – là hình ảnh những cột đá khổng lồ, vừa không thô nhám, cứng nhắc, vừa xinh xắn, mềm mại. Năm 1917, hang Đầu Gỗ được vua Khải Định lên thăm và cho khắc một tấm văn bia với nội dung ca ngợi cảnh đẹp của non nước Hạ Long nói chung và hang Ðầu Gỗ nói riêng. Hiện nay, tấm bia đá vẫn còn ở phía bên phải cửa động tuy chữ đã bị mài mòn.
Ngoài ra, vịnh còn có rất nhiều hang động đẹp mà tràn đầy bí ẩn, tên gọi của chúng hầu hết xuất phát từ những truyền thuyết, lịch sử như: hang Trinh Nữ, hang Trống, hang Luồn, động Kim Quy,…góp vào bức tranh vịnh những gam màu rực rỡ, đa dạng, gợi sự tò mò đến với du khách để tìm hiểu và khám phá vẻ đẹp, cội nguồn sâu xa của tên gọi.
Có thể nói vịnh Hạ Long chính là chứng nhân của lịch sử bởi nó gắn liền với những trang sử của quân dân Việt Nam trong thời kỳ dựng nước và giữ nước, lưu giữ những bút tích của một thời đại quân chủ chuyên chế , những trí tưởng tượng, sự sáng tạo của người Việt Nam từ thời tiền sử.
Không chỉ vậy, vịnh Hạ Long có giá trị rất lớn về mặt du lịch trong việc quảng bá hình ảnh và vẻ đẹp của đất nước ta đến với thế giới và được UNESCO công nhận về giá trị thẩm mỹ và giá trị địa chất- địa mạo, có giá trị đa dạng sinh học với hệ sinh thái điển hình của vùng biển nhiệt đới và có tiềm năng khai thác về nguồn thủy hải sản phong phú.
Ta có thể thấy vịnh Hạ Long chứa đựng một vẻ đẹp tiềm tàng, đa dạng mà bí hiểm, như một người thiếu nữ tuổi mới lớn, nếu được phát triển đúng cách, vẻ đẹp đó sẽ đạt đến đỉnh cao, thu hút mọi ánh nhìn.
Người Việt Nam ta tự hào khi có được một di sản mà thiên nhiên ban tặng để mà trân trọng gìn giữ cái quà tặng quý báu ấy, càng tự hào hơn khi vịnh Hạ Long nhận được sự thừa nhận của bạn bè quốc tế, đã trở thành điểm du lịch nổi tiếng khi du khách đến Việt Nam.
Kí ức của con người luôn ghi dấu những điều đẹp nhất về quê hương, gia đình, xứ sở của họ, nơi họ đã sinh ra và lớn lên. Lớn lên, đi xa vào đời, đi đến đâu cũng đều mang trong mình màu sắc của nơi ta đã lớn lên, chả phong cảnh nơi đó. Như những người con quê tôi, phóng khoáng và dịu dàng như nước, như trời nơi Vịnh Hạ Long
Vịnh Hạ Long thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh, là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Đông Bắc Bộ, thuộc bờ biển Đông Bắc Việt Nam. Phải mất hàng triệu năm, đá xô sóng, sóng xô gió, vận động không ngừng nghỉ mới tạo nên một tác phẩm địa lí hoàn mỹ như thế, rộng lớn như thế, xanh rờn như thế. Toàn bộ vịnh có diện tích khoảng 1553 km vuông, có tới 1960 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau, phần lớn trong đó là các đảo đá vôi.
Vịnh Hạ Long nổi tiếng bởi cảnh non nước hữu tình của nó. Nếu để máy quay trên cao nhìn xuống, Hạ Long như một bức gấm xanh khổng lồ được thêu bằng nước và đá. Tất cả đều do một tay Tạo hóa sắp đặt và tạo thành. Những hình dáng uốn lượn của nước, những hòn đảo, những núi đá vôi kì vĩ như những tác phẩm điêu khắc được tạo ra từ bàn tay người nghệ nhân. Hòn đảo như hình người đang ngóng về đất liền kia là hòn Đầu Người, đảo giống như ngư ông đang ngồi đánh cá kia là hòn Lã Vọng, đảo như cánh buồm đang vươn gió ra khơi kia là hòn Cánh Buồm, và đặc biệt là hòn đảo nổi tiếng nhất như hình ảnh hai con gà đang âu yếm – hòn Trống Mái đã trở thành hình ảnh tượng trưng cho những con tem, bì thư,…
.âu yếm vờn nhau trên sóng nước – hòn Trống Mái; đứng giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất – hòn Lư Hương… Tất cả đều rất thực, thực đến kinh ngạc. Những đảo đá diệu kỳ ấy biến hóa khôn lường theo thời gian và góc nhìn. Tới đây ta mới nhận ra tất cả chúng không phải là những hòn đảo vô tri tĩnh lặng mà như có hồn và đều sống động.
Sáu mươi tư tỉnh thành, mỗi tỉnh thành đều mang một nét đặc trưng riêng, một bản sắc riêng và tất nhiên sẽ có những danh lam thắng cảnh riêng. Tôi may mắn được sinh ra trên vùng đất Quảng Ninh xinh đẹp nơi có rất nhiều những danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Nhưng giờ đây, Quảng Ninh lại sở hữu một địa danh có lẽ khi nhắc tới bạn bè quốc tế thì họ đều biết đó là địa danh của Việt Nam: vịnh Hạ Long.
Theo truyền thuyết xa xưa, khi thấy đất nước bị giặc ngoại xâm lăng thì Ngọc Hoàng đã sai nhà rồng xuống trần gian giúp dân đánh giặc. Tuy nhiên sau khi đánh tan giặc thì nhà rồng không trở về trời mà ở lại trần thế. Vị trí nhà rồng đáp xuống nơi đây, phun ra hàng ngàn châu ngọc và tạo thành Vịnh Hạ Long bây giờ.
Về mặt địa lý, vịnh Hạ Long là một phần của vịnh Bắc Bộ, nằm ở vũng Sõng Bắc Việt Nam. Phía Tây Nam giáp với quần đảo Cát Bà, phần giáp giáp biển dài 120 km. Tổng diện tích của vịnh khoảng 1.500 km2, gồm 1.969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có gần 1.000 đảo đã được đặt tên. Tử bến cảng Hạ Long, tàu hoặc thuyền buồm của công ty du lịch sỗ đưa du khách vào cuộc hành trình ngao du sơn thuỷ.
Các đảo trong vịnh có hai loại chính là đảo đá vôi và đảo phiến thạch tập trung ở hai vùng chính là vịnh Bái Tử Long và vịnh Hạ Long, có tuổi kiến tạo địa chất từ 250 – 280 triệu năm. Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu thì khoảng nửa tỷ năm về trước, một phần rìa lục địa châu Á bị sụp xuống, nước biển tràn vào thành vịnh. Những núi đá vôi bị nước biển nhấn chìm biến thành đảo đá. Thời gian, nước biển cùng với mưa gió đã bào mòn núi đá, tạo ra nhiều hang động.
Cách thành phố Hạ Long khoảng 8km là đảo Vạn Cảnh hay còn gọi là đảo Canh Độc. Đảo Vạn cảnh cao 189 mét, hình dáng giống như một chiếc ngai vua. Đảo có hai hang động tuyệt đẹp là hang Đầu Gỗ nằm chênh vênh trên cao và động Thiên Cung kì bí cách nhau khoảng 100m và ăn thông với nhau bằng những lối đi quanh co, uốn lượn. Du khách vào thăm động Thiên Cung sẽ bị quyến rũ bởi vẻ đẹp lộng lẫy và đa dạng của những kiệt tác chỉ có thể được làm ra từ bàn tay Tạo hoá.
Từ trên vòm động, vô vàn nhũ đá rủ xuống và trên vách động có nhiều hình thù kỳ lạ. Có những nhũ đá trông giống như hai vị thần Nam Tào, Bắc Đẩu hoặc Tiên nữ đang múa hát. Có khối mang hình người, hình chim, hoa, muông thú rất sống động… Đi hết động Thiên Cung cũng là lúc du khách bước sang hang Đầu Gỗ hay còn gọi là hang Dấu Gỗ. Đây là chứng tích ghi lại chiến công năm xưa của vị tướng tài ba Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã chỉ huy quân sĩ chôn cọc gỗ lim dưới lòng sông Bạch Đằng, đảm thùng đoàn thuyền tiếp viện lương thực của quân Mông – Nguyên. Cửa hang ở lưng chừng núi, bên trong hang có nhiều trụ đá lởm chởm với nhiều hình dạng. Vách hang thẳng đứng, lòng hang tối mờ, sâu thẳm, bất chợt có khoảng sáng hiếm hoi rọi qua giếng trời trên, trần động, cảnh vật hiện ra mờ mờ ảo ảo. Đứng trước cửa hang Đầu Gỗ, du khách phóng tầm mắt nhìn xuống bến thuyền, tha hổ ngắm nhìn trời mây, non nước. Những con thuyền dập dềnh soi bóng trên mặt biển trong xanh. Tất cả tạo thành bản tình ca bất tuyệt của thiên nhiên với đủ cung bậc bâng khuâng, trữ tình. Ngoài hai hang động trèn, du khách còn được tham quan các hang động khác cũng đẹp và quyến rũ không kém như hang Bồ Nâu, Trinh Nữ, Mê Cung, Hoa Cương…
Thú vị vô cùng là lúc con thuyền lướt sóng đưa du khách thăm rừng đảo đá. Gió từ biển Đông thổi vào hoà quyện với hơi lạnh từ các dãy núi đá đưa mùi hương thơm ngát của các loài hoa đang nở rộ. Không khí thật trong lành và dễ chịu. Thoạt nhìn, tưởng chừng rừng đảo đá âm u, đơn điệu sẽ làm cho khách tham quan e ngại, nhưng càng đến gần, vẻ đẹp của từng hòn đảo càng hiện ra rõ nét. Một thế giới của các loài vật hoá đá với những tên gọi: hòn Đại Bàng, hòn Rồng, hòn Con Chó Gác Biển, hòn Yên Ngựa, hòn Con Cóc, hòn Con Mối… Rời đảo Đầu Người, đảo ông Lã Vọng… Có đảo chạy dài nhấp nhô như bức tường thành chắn sông.
Bàn tay điêu khắc kỳ tài của tạo hoá đã làm cho cảnh sắc Hạ Long không chỉ đẹp đẽ mà còn phong phú và đa dạng. Sự kì vĩ của núi đá nối liền với sự dịu dàng, mát mẻ của sóng nước tạo ra vẻ đẹp sâu lắng, trầm mặc, cuốn hút hồn người.
Vịnh Hạ Long còn làm say mê các nhà nghiên cứu sinh vật học, vì nơi đây tập trung nhiều hệ sinh thái như rừng ngập mặn, rừng cây nhiệt đới với hàng ngàn loài động vật trên rừng, dưới biển. Đến thăm Hạ Long, du khách Không chỉ ngắm nhìn vẻ đẹp của rừng, của biển mà còn suy ngẫm về một truyền thống lịch sử rất đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Trên vùng biển Đông Bắc nước ta, vịnh Hạ Long như một viên ngọc bích khổng lồ phản ánh vẻ đẹp kì diệu và vĩnh hằng của thiên nhiên.
Và vào ngày 17-12-1994, tại Thái Lan, Hội đồng Di sản Thiên nhiên Thế giới đã công nhận vịnh Hạ Long là kỳ quan thiên nhiên của toàn nhân loại.
Dải đất hình chữ S không chỉ là quốc gia có truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời, tinh thần dân tộc kháng chiến mà thiên nhiên ưu ái cho nhiều cảnh quan, danh lam thắng cảnh hùng vĩ, trong đó phải nhắc đến vịnh Hạ Long nơi truyền thuyết rồng đáp xuống. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của thế giới.
Vịnh Hạ Long hòn đảo nằm ở phía Tây Vịnh Bắc Bộ, hiện nay thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vịnh Hạ Long có gần 2000 hòn đảo lớn nhỏ, cảnh vật hùng vĩ, đẹp đẽ, cảnh sắc mê hồn. Vẻ đẹp của vịnh Hạ Long có thể gọi là cảnh sắc thần tiên có một không hai trên đời.
Nơi này còn có nhiều hòn đảo chủ yếu là đá vôi, thực động vật đa dạng phong phú, khu lịch sinh thái với hàng ngàn động vật dưới nước phong phú.Vịnh Hạ Long có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo thời kì lịch sử, thời Bắc thuộc được gọi là Lục Châu Lục Hải đến thời người Pháp gọi là Vịnh Hạ Long tên gọi đó được duy trì cho đến ngày nay với ý nghĩa vịnh nơi rồng đáp xuống.
Hạ Long cũng mang trong mình truyền thống hào hùng dân tộc Việt Nam, các địa danh như Vân Đồn, núi Bài Thơ, sông Bạch Đằng…đều là những địa danh nổi tiếng gắn liền với lịch sử. Nơi này còn có hệ sinh thái đa dạng như rừng ngập mặn, san hô, rừng cây nhiệt đới… Tập trung hàng ngàn loài động thực vật, động vật quý hiếm đã và đang phát triển, bảo tồn cho thế hệ mai sau.
Vịnh Hạ Long giờ đây đã là di sản văn hóa thế giới với cảnh quan thiên nhiên thần tiên, con người thân thiện, địa điểm tham quan không thể bỏ qua của mọi du khách khi đến với đất nước hình chữ S.
Đất nước hình chữ S nhỏ bé của chúng ta có rất nhiều địa điểm du lịch độc đáo và nổi tiếng. Tự hào được thiên nhiên ưu ái, nước Việt Nam ta có rất nhiều bãi biển, vũng vịnh tuyệt đẹp. Có thể kể đến rất nhiều những địa điểm như thế. Nhưng không thể nào thiếu Vịnh Hạ Long.
Hạ long là cái tên tự hào của người Việt Nam. Được UNESCO công nhận là bảy kỳ quan thiên nhiên đẹp nhất thế giới, Vịnh Hạ Long đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng hình ảnh đẹp của chúng ta trong mắt bạn bè quốc tế. Vịnh Hạ Long nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam thuộc một phần của vịnh Bắc Bộ. Vịnh Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh – Việt Nam bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả, và một phần của huyện đảo Vân Đồn. Phía tây nam vịnh giáp đảo Cát Bà, phía đông là biển, phần con lại giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km với tổng diện tích 1553 km². Vịnh Hạ Long gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ. Đảo ở đây có hai loại là đảo đá vôi và đảo phiến thạch tập trung ở Bái Tử Long và vịnh Hạ Long. Ở đây, chúng ta có thể tham gia chiêm ngưỡng hàng loạt những hang động đẹp, nổi tiếng. Vùng di sản thiên nhiên được UNESCO công nhận có diện tích 434 km² gồm 775 đảo. Phần thiên nhiên được công nhận này như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Đầu Gỗ ở phía Tây, hồ Ba Hầm ở phía nam và đảo Cống Tây ở phía đông. Sự độc đáo của vịnh Hạ Long chính là hình dáng, đặc điểm của những hòn đảo nhỏ ấy. Các hang động đẹp cũng là điểm nhấn lớn của Hạ Long. Từng đảo, từng đảo quần tụ lại nhìn xa cứ như lớp lớp chồng lên nhau, tiến lại gần thì như xen kẽ nhau tạo thành một quần thể đẹp đến lạ lùng. Phải tự hào chúng ta được tạo hóa ưu ái. Từng đảo của vịnh không mang những đẹp mà còn mang hình hài của vạn vật. Từ hòn Trống Mái, hòn Ông Sư, hòn Lã Vọng rồi đến đảo Tuần Châu, hang Trinh Nữ….
Vịnh Hạ Long không chỉ đẹp bởi đảo đá, núi đá, hang động, mà còn đẹp bởi nước biển ở đây. Nước biển rất trong xanh. Chính vì thế mà du khách tới đây thường để tắm biển và ngắm đảo, hang động. Tên gọi Vịnh Hạ Long có từ thời Pháp thuộc. Trước đây vịnh có tên là Lục Châu, Lục Hải. Thời nhà Lý, vịnh có tên là Hải Châu. Đến thời vua Trần, Lê được gọi bằng các tên như: An Bang, Vân Đồn, Ngọc Sơn, Lục Thủy. Tên của vịnh được thay đổi nhiều qua các thời kỳ. Cái tên vịnh Hạ Long xuất phát từ truyền thuyết Rồng đáp xuống bảo vệ chúng ta khỏi lũ giặc ngoại xâm. Theo nghĩa Hán Việt “Long” là rồng, “hạ” là đáp xuống. Cái tên Hạ Long chính là để nhắc về truyền thuyết này. Vịnh Hạ Long được vinh danh là kỳ quan thiên nhiên thế giới không chỉ bằng vẻ đẹp mà còn bởi nhiều yếu tố khác. Chẳng hạn như, ở nơi đây có rất nhiều địa danh khảo cổ học nổi tiếng: Đồng Mang, Soi Nhụ, Thoi Giếng… Nó đã chứng minh, Hạ Long là cái nôi của nền văn minh con người thời kỳ Hậu đồ đá. Hơn hết, ở đây còn có sự đa dạng sinh học bậc nhất. Với sự tập trung của nhiều loài động thực vật đặc trưng cho từng kiểu hệ sinh thái: hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới… cùng với hàng ngàn loài động vật biển quý hiếm chỉ có ở vịnh Hạ Long. Điểm quan trọng không kém của vịnh Hạ Long này chính là nó gắn liền với nhiều giai thoại lịch sử của dân tộc, với nhiều chiến công chống giặc ngoại xâm lẫy lừng của các vị tướng anh hùng. Có thể kể đến: chiến thắng sông Bạch Đằng lẫy lừng năm xưa.
Một kỳ quan thiên nhiên, một dấu ấn lịch sử. Đến vịnh Hạ Long bạn không chỉ được tận hưởng một không gian đẹp, thiên nhiên bao trùm, cảnh sắc thoải mái nhẹ nhàng và êm dịu, mà còn được thưởng thức những món ăn ngon chế biến từ hải sản, các hoạt động giải trí. Đến Hạ Long chắc chắn bạn sẽ có một kì nghỉ dưỡng tuyệt vời.
Nhắc đến danh lam thắng cảnh, những chốn có non nước hữu tình trên đất nước Việt nam ta khó lòng không nhắc đến vịnh Hạ Long. Cái tên ấy ai là người Việt nam cũng biết đến. Nó không chỉ đẹp trong hiện tại hay tương lai mà nó còn đẹp từ thời xưa trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: “Con gà, con cóc quê hương cũng biến Hạ Long thành thắng cảnh”. Mới đây vịnh Hạ Long còn được UNESCO công nhận là một trong bảy kỳ quan đẹp nhất thế giới. Vậy không biết rằng Hạ Long có những gì mà lại được tôn vinh đến như vậy?
Vịnh Hạ Long còn có truyền thuyết đó là Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang.
Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay, với bãi cát dài trên 15 km).
Lại có truyền thuyết khác nói rằng vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm thành bức tường thành chắn bước tiến của thủy quân giặc. Chỗ rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long.
Trước hết về vị trí của vịnh Hạ Long thì nó nằm ở vùng Ðông Bắc Việt Nam, vịnh Hạ Long là một phần vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Ðồn. Phía tây nam Vịnh giáp đảo Cát Bà, phía đông là biển, phần còn lại giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, được giới hạn từ 106°58′ – 107°22′ kinh độ Ðông và 20°45′ – 20°50′ vĩ độ Bắc với tổng diện tích 1553 km².
Tiếp nữa là về đảo ở đây thì có 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo nơi đây gồm có hai dạng đó là đảo đá vôi và đảo phiến thạch tập trung ở Bái tử long và vịnh Hạ Long. Ở đây thì chúng ta thấy được hàng loạt những hang động đẹp và nổi tiếng. Vùng Di sản thiên nhiên được thế giới công nhận có diện tích 434 km² bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Ðầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam), đảo Cống Tây (phía đông) vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng năm 1962.
Đến với Hạ Long thì người ta không thể nào rời mắt khỏi những cảnh vật nơi đây. Nào là núi, nào là nước với những hang động thật sự hấp dẫn người ta muốn đi tới tận cùng để tìm thấy cái hữu hạn trong cái vô hạn của trời nước, núi non ấy. chúng ta cứ ngỡ rằng ngọn núi kia giống như những người khổng lồ vậy, ngồi trong thuyền mà ngước lên để đo tầm cao của những ngọn núi ấy thật sự là mỏi mắt. Đến đây ta mới biết hết thế nào là sự hùng vĩ, thế nào là sự hữu tình giữa nước và non. Làn nước biển mặn mà vị xa xăm của muối. Hang động với những nhũ đá như sắp rơi xuống nhưng thật chất lại là không rơi. Nó cứ tua tủa như muôn ngàn giọt ngọc dạng lỏng lấp lánh dính vào nhau nhưng không rơi xuống.
Con người nơi đây cũng thật sự là rất đáng yêu đáng quý. Họ không những mến khách mà còn như một người hướng dẫn viên du lịch vừa nói giới thiệu tả cảnh vừa vững tay chèo đẩy lái đến nơi khách muốn qua. Những con người ở đây nồng nhiệt mỗi khi có khách đến và khi khách đi thì để lại những ấn tượng khó phai về những con người miền non nước hữu tình với những tình cảm mặn mà như là muối biển vậy.
Qua đây ta thấy vịnh Hạ Long rất xứng đáng là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Nếu những ai đã được đặt chân đến đây thì chắc hẳn rất ấn tượng bởi cảnh đẹp và con người nơi đây. Còn những ai chưa đến thì hãy nhanh chóng đến mà tận hưởng những gì là tạo hóa ban tặng, những gì là mẹ thiên nhiên.
Nước ta có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Trong số đó không thể không kể đến Hạ Long. Đó là một kiệt tác của thiên nhiên, được công nhận là một di sản văn hóa thế giới. Người Việt Nam ta tự hào vì được sở hữu một danh lam thắng cảnh đẹp như vậy.
Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh. Vịnh Hạ long được hình thành do sự vận động của đá và nước, là một tác phẩm nghệ thuật địa lý được hoàn thành sau hàng triệu năm biến đổi của địa chất. Vịnh Hạ Long giới hạn trong diện tích khoảng 1.553km² bao gồm 1.960 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi.
Nói đến vịnh Hạ Long, trước hết phải nói đến vẻ đẹp thần tiên của non nước mây trời nơi đây. Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ vô cùng sống động. Đó là những tác phẩm tạo hình tuyệt mỹ, tài hoa của tạo hoá, của thiên nhiên biến hàng ngàn đảo đá vô tri tĩnh lặng kia trở nên những tác phẩm điêu khắc, hội họa hoàn mỹ với muôn hình dáng vẻ yêu kiều. Hàng ngàn đảo đá nhấp nhô trên sóng nước lung linh huyền ảo, vừa khoẻ khoắn hoành tráng nhưng cũng rất mềm mại duyên dáng, sống động. Đi giữa Hạ Long với muôn ngàn đảo đá, ta ngỡ như lạc vào một thế giới cổ tích bị hoá đá nơi đây. Đảo thì giống hình ai đó đang hướng về đất liền – hòn Đầu Người; đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước – Hòn Rồng; đảo thì lại giống như một ông lão đang ngồi câu cá – hòn Lã Vọng; và kia hai cánh buồm nâu lực lưỡng đang rẽ sóng nước ra khơi – hòn Cánh Buồm; rồi hai con gà đang âu yếm vờn nhau trên sóng nước – hòn Trống Mái; đứng giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất – hòn Lư Hương… Tất cả đều rất thực, thực đến kinh ngạc. Những đảo đá diệu kỳ ấy biến hóa khôn lường theo thời gian và góc nhìn. Tới đây ta mới nhận ra tất cả chúng không phải là những hòn đảo vô tri tĩnh lặng mà như có hồn và đều sống động.
Tiềm ẩn trong lòng các đảo đá ấy là những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, động Tam Cung… Đó thực sự là những lâu đài của tạo hoá giữa chốn trần gian. Từ xưa, Hạ Long đã được đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi mệnh danh là “kỳ quan đất dựng giữa trời cao”. Du khách từ khắp năm châu khi đặt chân đến đây đều cảm thấy vô cùng thích thú trước vẻ đẹp kỳ vĩ của Hạ Long. Biển ở đây còn mang một vẻ đẹp rất riêng khi hoàng hôn buông xuống. Mặt vịnh lúc này được nhuộm một sắc màu đỏ rực của những tia nắng cuối cùng. Cảnh sắc quyện lại dệt nên những gam màu tuyệt diệu. Khi màn đêm buông xuống, vào những đêm trăng, mặt nước như được dát bạc quyện với màu sẫm của những đảo đá mờ xa khiến cho vịnh Hạ Long trở nên huyền ảo như thật như mơ.
Advertisement
Hùng vĩ và bí ẩn, đầy cảm hứng và vô cùng độc đáo, vịnh Hạ Long thật xứng đáng là một trong những kỳ quan thiên nhiên đẹp nhất. Những hòn đảo nhỏ như được chấm lên trên nền xanh ngọc của biển, cùng theo đó là những hang động kỳ bí được tạo nên bởi sóng và gió, những cánh rừng xanh biếc rộn rã tiếng chim hót, thật kỳ ảo. Sương mù có thể làm cho tầm nhìn bị hạn chế nhưng lại góp phần làm cho vịnh Hạ Long thêm lung linh kỳ ảo. Ta đang ngỡ ngàng trước cảnh vật thơ mộng này, thoắt đã hiện lên cảnh vật khác, mới lạ và đầy vẻ quyến rũ. Các ngõ ngách lúc khép, lúc mở, lúc là hành lang thẳng tắp lung linh nước trời, lúc uốn lượn dưới chân những quả núi cao vút đổ bóng râm huyền bí xuống mặt nước yên ắng. Có khi thuyền ta đang đi, bỗng nhiên một dãy đảo sừng sững vụt hiện lên trước mặt, chắn ngang lạch nước, ngỡ đã cùng đường. Nhưng không, khi thuyền ta lướt tới, dãy đảo như né mình, mở ra các lối ngoặt bất ngờ dẫn ta đi sâu vào rừng đảo vừa quen thuộc lại vừa xa lạ. Cảnh vật của biển đảo Hạ long thoắt ẩn, thoắt hiện, với sự biến đổi chừng như giây lát đã làm cho biết bao du khách ngạc nhiên, say đắm.
Hạ Long cũng là nơi gắn liền với những trang sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc Việt Nam với những địa danh nổi tiếng như Vân Đồn – nơi có thương cảng cổ sầm uất vào thế kỷ thứ 12; có núi Bài Thơ lịch sử; cách đó không xa dòng sông Bạch Đằng – là chứng tích của hai trận thuỷ chiến lẫy lừng của các thế hệ ông cha chống giặc ngoại xâm. Không chỉ có vậy, Hạ Long còn là một trong những cái nôi của con người với nền Văn hoá Hạ Long huy hoàng thời Hậu kỳ đồ đá mới tại những địa danh khảo cổ học nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng… Hạ Long cũng là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới… Với hàng ngàn loài động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng như tôm, cá, mực… Có những loài đặc biệt quý hiếm chỉ có ở nơi đây.
Với các giá trị ngoại hạng về cảnh quan và địa chất, địa mạo vịnh Hạ Long hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát triển ngành kinh tế du lịch với loại hình đa dạng. Đến vịnh Hạ Long, chúng ta có thể tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, tham quan ngắm cảnh, tắm biển, bơi thuyền, thả dù, lặn khám phá rặng san hô, câu cá giải trí… Vùng vịnh thích hợp cho việc nuôi trồng và đánh bắt hải sản do có các điều kiện thuận lợi: khí hậu tốt, diện tích bãi triều lớn, nước trong, ngư trường ven bờ và ngoài khơi có trữ lượng hải sản cao và đa dạng với cá song, cá giò, sò, tôm, bào ngư, trai ngọc các loại.
Hiện nay, vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Hạ Long là một điểm du lịch hấp dẫn vì cảnh quan nơi đây thật đẹp và hữu tình. Phong cảnh Hạ Long không bao giờ bị tẻ nhạt, mỗi một mùa lại mang đến cho Hạ Long một sắc thái riêng đầy ấn tượng. Mùa xuân giữa sóng nước mênh mông trong làn sương bạt che phủ, những đảo đá trở nên uyển chuyển mềm mại, bồng bềnh trên sóng nước. Mùa hè đến, ánh bình minh ló rạng nơi chân trời, những đảo đá như vươn dậy, từ mặt nước bao la. Toàn vịnh mang một màu đỏ rực chuyển dần sang màu xanh lam. Những gợn sóng lăn tăn ánh bạc đua nhau lướt trên mặt vịnh xô vào bờ. Vịnh Hạ Long là một di sản văn hóa đáng tự hào của dân tộc.
Ngày nay, vịnh Hạ Long vẫn đang thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, mang lại nhiều lợi ích cho nước nhà, chúng ta cần ra sức bảo vệ và giữ gìn vịnh Hạ Long để vịnh ngày càng xanh tươi hơn, mãi mãi là niềm tự hào của đất nước.
Không rõ từ bao giờ cả một vùng non nước kì thú phần phía Bắc Việt Nam này lại mang tên Vịnh Hạ Long chỉ biết rằng cái tên gắn liền với chủ quyền đất và thấm đẫm chất sử thi. Vâng nói đến vịnh Hạ Long thì không một con dân nào trên đất nước Việt Nam này là không biết đến. Đây chính là một niềm tự hào của dân tộc Việt Nam đối với bạn bè thế giới bởi cảnh vật nơi đây độc đáo đến lạ thường.
Chuyện kể rằng không rõ từ thời nào một lần giặc ngoại xâm định xanh bằng đất nước Việt Nam nhỏ bé. May thay trời sai một đàn rồng xuống giúp để dẹp giặc. Rồng mẹ cùng rồng con phun ra châu ngọc. Châu ngọc ấy xếp thành muôn vàn đảo đá ngọc thạch. Chỗ thì kết lại như bức tường thành, chỗ lại chìa ra như trận địa ngăn quân xâm lược. Giặc tan rồng mẹ và rồng con không về trời mà ở lại trần gian in dấu chiến công đánh giặc. Chỗ rồng mẹ xuống gọi là Hạ Long, chỗ rồng con xuống gọi là Bái Tử Long, chỗ đuôi rồng chìa ra gọi là Bạch Long Vĩ và chiến tích hiện hữu biểu hiện cho sức mạnh, sự cao quý của kho sử thi ấy. Ngày nay đã trở thành báu vật vô giá nhất, kỳ quan độc nhất vô nhị của cả hành tinh.
Điểm đến đầu tiên của du khách khi đến đây là đảo Đầu Gỗ cách bến cảng khoảng chừng 4km. Nếu đi tàu sẽ mất khoảng 25 phút sẽ được chiêm ngưỡng các động nổi tiếng nhất của di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long. Đó là động Thiên Cung và hang Đầu Gỗ là hai hang động mà du khách nào khi đến đây cũng không thể bỏ qua. Động Thiên Cung là một trong những hang động khổng lồ và nổi tiếng nhất vịnh Hạ Long và có nhiều người biết đến, những gì nhìn thấy trong hang động đều khiến con người kinh ngạc và sững sờ từ đầu đến cuối hang động khiến du khách không tin vào mắt mình. Mới hay Hạ Long đậm chất tuyệt vời ở sông nước và cả đất trời. Nếu chỉ đi từ bên ngoài những người mới đến thật khó có thể biết rằng nằm trong hàng trăm, hàng ngàn những núi đá lặng lẽ thăng trầm mão rủ bóng xuống biển xanh kia là không biết bao nhiêu các hang động lớn nhỏ. Mỗi lâu đài là một kiến trúc vô cùng tinh xảo của tạo hóa. Có những hang động đã được lưu vào lịch sử hàng trăm triệu năm.
Từ trên cao nhìn xuống vịnh Hạ Long như một bức tranh thủy mặc khổng lồ vô cùng sống động, đảo thì giống như ai đó đang hướng về phía đất liền, đảo thì giống như một con rồng khổng lồ giữa sóng nước mênh mông. Những điều kì diệu ấy biến hóa không ngừng theo mỗi góc nhìn khác nhau
Một ngày lênh đênh trên biển Hạ Long khiến ta có cảm giác lạ lùng và xao xuyến trước không gian tĩnh lặng thấp thoáng mờ tỏ sau làn sương mong manh là những đỉnh núi xanh lam. Thiên nhiên khiến tâm hồn ta như được thư thái tràn ra và chìm ngập vào bầu trời không gian trong cõi xa xôi. Bất giác ta như lớn thêm, có chút suy nghĩ sâu xa hơn về cuộc sống về triết lý của cuộc sống để ta trân trọng yêu quý những gì mà ta đang có.
Hiện nay vấn đề bảo tồn di tích lịch sử vịnh Hạ Long đang là vấn đề cấp thiết hàng đầu.Chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã và đang dùng những biện pháp mạnh để bảo vệ vịnh Hạ Long như phạt mạnh khi vứt rác xuống vịnh. Bên cạnh đó cũng đưa ra các phong trào để người dân và khách tham quan cùng làm sạch vịnh góp phần tô điểm cho vịnh Hạ Long. Tại vịnh rất nhiều người dân đặc biệt là các sinh viên học sinh đã có ý thức rất tốt khi thực thiện rất nhiều cuộc ra quân để làm trong lành vịnh Hạ Long.
Vịnh Hạ Long sẽ mãi là điểm đến thu hút khách tham quan bởi những nét kiến trúc độc và lạ khó có một nơi nào trên thế giới có được. Vịnh Hạ Long vẫn sẽ mãi là niềm tự hào của người dân Việt Nam đối với bạn bè năm châu để Việt Nam sẽ là một điểm đến thu hút khách du lịch thế giới.
…
Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Cây Bút Bi (Dàn Ý + 33 Mẫu) Thuyết Minh Về Chiếc Bút Bi Lớp 8
Qua sự nâng niu, khéo léo của đôi bàn tay, bút bi đã viết thành những dòng chữ mềm mại, chứa đựng cả tâm tình người viết. Với 33 bài thuyết minh bút bi, sẽ giúp các em có thêm nhiều vốn từ, nhanh chóng hoàn thiện bài văn của mình thật hay.
Dàn ý thuyết minh về bút bi
Thuyết minh về cây bút bi ngắn gọn
Thuyết minh về chiếc bút bi chi tiết
Thuyết minh về cây bút bi hay nhất (30 mẫu)
Thuyết minh lịch sử ra đời và phát triển của cây bút
I. Mở bài
Giới thiệu chung về tầm quan trọng của bút bi: “Nét chữ là nết người”. Thật vậy, câu thành ngữ ngắn gọn đã đi sâu vào trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, nhắc nhở ta về học tập cũng như tầm quan trọng của nét chữ. Bởi học tập là một quá trình đầy khó khăn vất vả để xây dựng những nhân tài phục vụ cho tổ quốc ngày càng tươi đẹp. Và trong quá trình gian nan đó, đóng góp một công lao không nhỏ chính là cây bút bi.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Được phát minh bởi nhà báo Hungari là Lazo Biro vào những năm 1930 quyết định và nghiên cứu. Ông phát hiện mực in giấy rất nhanh khô cứu tạo ra một loại bút sử dụng mực như thế.
2. Cấu tạo
Vỏ bút: Ống trụ tròn dài từ 14 – 15 cm được làm bằng nhựa dẻo hoặc nhựa màu, trên thân thường có các thông số ghi ngày, nơi sản xuất.
Ruột bút: Bên trong, làm từ nhựa dẻo, chứa mực đặc hoặc mực nước.
Bộ phận đi kèm: Lò xo, nút bấm, nắp đậy, trên ngoài vỏ có đai để gắn vào túi áo, vở.
3. Phân loại
Kiểu dáng và màu sắc khác nhau tùy theo lứa tuổi và thị hiếu của người tiêu dùng.
Màu sắc đẹp, nhiều kiểu dáng (có sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hoá trong bài)
Hiện nay trên thị trường đã xuất hiện nhiều thương hiệu bút nổi tiếng.
4. Nguyên lý hoạt động, bảo quản
Nguyên lý hoạt động: Mũi bút chứa viên bi nhỏ, khi viết lăn ra mực để tạo chữ.
Bảo quản: Cẩn thận.
5. Ưu điểm, khuyết điểm
– Ưu điểm:
Bền, đẹp, nhỏ gọn, dễ vận chuyển.
Giá thành rẻ, phù hợp với học sinh.
– Nhược điểm: Vì viết được nhanh nên dễ giây mực và chữ không được đẹp. Nhưng nếu cẩn thận thì sẽ tạo nên những nét chữ đẹp mê hồn.
– Phong trào: “Góp bút Thiên Long, cùng bạn đến trường” khơi nguồn sáng tạo.
6. Ý nghĩa
Càng ngày càng khẳng định rõ vị trí của mình.
Những chiếc bút xinh xinh nằm trong hộp bút thể hiện được nét thẩm mỹ của mỗi con người
Dùng để viết, để vẽ.
Những anh chị bút thể hiện tâm trạng:
Như người bạn đồng hành thể hiện ước mơ, hoài bão… của con người.
“Hãy cho tôi biết nét chữ của bạn, tôi sẽ biết bạn là ai.”
III. Kết bài
Kết luận và nhấn mạnh tầm quan trọng của cây bút bi trong cuộc sống: Ý nghĩa của việc sử dụng yếu tố nghệ thuật trong văn bản thuyết minh.
Câu thành ngữ: “Nét chữ nết người” đã đi sâu vào tiềm thức của mỗi người qua từng lời răn của cha, lời khuyên của mẹ hay lời dạy của thầy cô. Tuổi thơ của tôi luôn được nhắc nhở trau chuốt từng nét chữ cho thật đẹp, thật sạch trước. Và để viết được những nét chữ thanh, đều thì bút viết đóng vai trò rất quan trọng. Nếu ngày xưa, mọi người ưa dùng bút máy thì ngày nay mọi người sử dụng cây bút bi thay thế. Bởi công dụng tiện lợi, giá thành rẻ và thuận tiện trong quá trình sử dụng.
Hiện nay bút bi được mọi người ưa dùng và sử dụng phổ biến, nhưng để hỏi về nguồn gốc của cây bút bi thì không phải ai cũng biết. Bút bi được phát minh bởi một nhà báo người Hungary. Do trong quá trình làm việc, ông nhận thấy bút máy có nhiều hạn chế, bất tiện như dễ làm rách giấy, dễ bị bẩn nên ông đã nghiên cứu và sáng chế ra chiếc bút bi đầu tiên. Nó khắc phục được những khuyết điểm của bút máy và dần dần được mọi người sử dụng rộng rãi.
Trên thị trường hiện nay có rất nhiều hãng bút bi khác nhau như Hồng Hà, Bến Nghé, Thiên Long,… với đầy đủ màu sắc, đa dạng nhưng hầu như chúng đều có những cấu tạo chung. Cấu tạo của bút bi gồm 3 bộ phận chính : Vỏ bút, ruột bút và bộ phận điều khiển. Vỏ bút thường được làm bằng chất liệu nhựa hơi cứng hoặc bằng kim loại, hình trụ tròn, dài tầm 14 đến 15 cm. Thân vỏ bút bi có hình logo của nhà sản xuất, mã vạch và thông tin về kích thước đầu ngòi. Để đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ hiện nay thì nhà sản xuất cũng thiết kế nhiều mẫu thân bút phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Vỏ bút đơn giản, sang trọng sẽ là lựa chọn hàng đầu của những người đi làm còn vỏ bút với nhiều màu sắc in hình dễ thương luôn được đa số học sinh chọn lựa. Bộ phận tiếp theo không thể thiếu sẽ đó là ruột bút. Ruột bút nằm phía trong vỏ bút, làm từ loại nhựa có tính chất dẻo và có thể thay đổi màu mực dễ dàng với đa dạng các màu như xanh, đỏ, tím, đen, cam…Phía đầu bút được làm từ kim loại không gỉ. Độ thanh hay đậm tùy thuộc vào kích thước đường kính của đầu bút. Cuối cùng, một bộ phận quan trọng không thể thiếu giúp cho cây bút bi hoạt động được đó là bộ điều khiển gồm lò xo và nút bật.
Bút được hoạt động với cơ chế đơn giản, khi muốn sử dụng thì ta chỉ cần bấm vào nút bật là có thể bắt đầu viết được. Khi dùng bút xong cũng chỉ cần bấm vào đai bên cạnh thì ngòi bút sẽ được kéo vào. Có một số bút bi không sử dụng lò xo thì người ta sẽ thiết kế nắp đậy để giữ mực khỏi bị khô và tránh sự hư hỏng đầu bút khi bị rơi hay va đập. Đối với bút sử dụng nắp đậy thì chỉ cần mở nắp là ta có thể viết được ngay. Dù bút được thiết kế đơn giản nhưng chúng ta nên biết cách bảo quản bút để được bút viết được tốt và lâu bền nhất. Nếu bút bị tắc mực, ta có thể dốc ngược bút xuống để mực chảy về phía đầu ngòi bút thì bút sẽ viết đều lại.
Ta bắt gặp hình ảnh của chiếc bút bi ở muôn nơi, có thể nằm gọn trong hộp bút của các bạn học sinh, trên những bản hợp đồng của các doanh nhân khi đi ký kết hay là song hành cùng các thầy cô giáo trên mỗi trang giáo án cũng như lời phê ở các bài kiểm tra cho học sinh. Bút bi đang phổ biến với mọi người bởi ngày nay bút bi được sản xuất với nhiều loại khác nhau từ cao cấp đến các loại bình dân đi kèm đó là các mức giá khác nhau phù hợp cho nhiều đối tượng người dùng. Giá của mỗi cây bút bi cao cấp từ vài trăm nghìn đến vài triệu đồng còn giá của những cây bút bi bình dân rơi vào khoảng từ 3000- 5000. Ngoài việc để sử dụng, mọi người còn xem bút bi như một món quà vô cùng ý nghĩa dành tặng cho thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp. Nó vừa có giá trị về mặt sử dụng, tinh thần và cả tâm linh. Việc tặng người thân yêu cây bút bi như một lời chúc, mong muốn cây bút đó sẽ ký kết được những dự án quan trọng hay thi cử may mắn. Vì vậy, cây bút bi có vai trò quan trọng đến mỗi người. Chúng ta học tập và làm việc đều cần đến bút bi và không biết từ bao giờ bút bi trở thành người bạn đồng hành đáng tin cậy với mọi người.
Cây bút bi đúng là một trong những phát minh đóng góp to lớn cho nhân loại. Có thể bạn không biết rằng cứ mỗi giây trôi qua, có 125 cây bút bi được bán ra trên thế giới. Con số đó chứng minh cho sự ưa chuộng của cây bút bi với mọi người. Vì vậy, mỗi cây bút bi nhỏ bé với giá cả phù hợp nhưng vai trò và công dụng của nó thì không nhỏ bé và tầm thường chút nào. Mỗi người nên có cho mình một chiếc bút bi yêu thích trong hộp bút hay trên bàn làm việc của mình.
Từ xa xưa, con người đã mong muốn lưu trữ tri thức nhân loại, đánh dấu kí hiệu hay chỉ đơn giản là học tập nên đã sử dụng những chiếc bút lông vũ để viết hay vẽ. Bút được tạo nên từ lông chim, lông gà nhưng đa phần sẽ sử dụng lông ngỗng. Tuy nhiên bút sử dụng rất bất tiện bởi phải mài mực, chấm mực một cách thường xuyên, viết xong phải rửa bút cẩn thận. Để khắc phục những khuyết điểm đó, bút máy ra đời. Bằng sáng chế cho chiếc bút bi đầu tiên trên thế giới được trao cho John J. Loud – Một người Mỹ đã tạo ra công cụ viết trên bề mặt thô, chẳng hạn như gỗ, giấy gói thô và các sản phẩm khác vào ngày 30 tháng 10 năm 1888.
Tuy nhiên phát minh này lại không được đưa vào sản xuất phổ biến. László Bíró – Một biên tập viên người Hungary thất vọng vì phải lãng phí thời gian vào việc đổ mực đầy bút máy và làm sạch các trang bị nhòe đã phát hiện rằng loại mực dùng để in báo có thể khắc phục những khuyết điểm đó. Loại mực ấy rất nhanh khô, nhờ đó giấy không bị mực làm bẩn và ông quyết định tạo ra loại bút sử dụng loại mực ấy. Một hôm ông ra công viên chơi và nhìn bọn trẻ chơi bi, một viên bi lăn vào vũng nước và để lại một vệt dài.
Chính điều này đã giúp ông nảy ra ý tưởng đặt viên bi trên đầu bút để nó truyền mực từ bút ra giấy. Với sự giúp đỡ của anh trai George là một nhà hóa học, ông bắt đầu thiết kế ra một loại bút mới và năm 1944 ông nhận bằng sáng chế với mẫu “Biro Pens of Argentina”.
Một chiếc bút bi sẽ có ba phần cơ bản: vỏ bút, ruột bút và bộ phận đi kèm khác. Vỏ bút thường được làm từ chất liệu nhựa dẻo có hình trụ thường dài từ 14 – 15 cm rất vừa tay người cầm, vỏ bút có công dụng bao bọc ruột bút và giúp người dùng dễ dàng cầm nắm, sử dụng. Vỏ bút có một lớp đệm cao su dày và dài tạo cảm giác dễ chịu cho người dùng. Ở phần chân bút đặc biệt có những đường viền nổi, những hoa văn tạo độ ma sát với tay người sử dụng, nhờ đó bút sẽ không bị trơn, tuột khỏi tay người.
Bộ phận thứ hai của cây bút chính là phần ruột bút – Đây là bộ phận quan trọng nhất của cây bút. Ruột bút là một ống mực rất nhỏ, trong làm từ nhựa dẻo bên trong chứa mực, khi viết mực sẽ bơm xuống thân bút giúp bút có thể viết ra mực. Một bộ phận quan trọng không kém khi sử dụng bút bi chính là đầu bút, đầu bút được làm bằng kim loại gắn với ống đựng mực.
Trên đỉnh ngòi bút là một viên bi tròn rất nhỏ (khoảng 0.5 – 1mm) người dùng khó quan sát. Viên bi nhỏ có thể di chuyển và có thể lăn ra mực, điều tiết được lượng mực bên trong ống một cách liều lượng không quá nhiều nhưng cũng không ít. Nếu viên bi nằm lệch so với phần đầu kim loại hay bị vỡ thì cây bút không còn sử dụng được bởi lượng mực chảy ra khó điều tiết, có thể bị tắc nghẽn mực hoặc hiện tượng mực chảy quá nhiều gây lấm lem.
Bộ phận cuối cùng của chiếc bút bi là những bộ phận đi kèm bao gồm lò xo, đầu nhấn bút,… Lò xo làm cho cây bút có độ đàn hồi, khi người sử dụng nhấn đầu bút thì cây bút có thể bật lên xuống để phục vụ nhu cầu sử dụng và bảo vệ ngòi bút. Các loại bút thường được đính kèm thêm đai bút để người dùng cắm vào sách, vở hay túi áo, túi quần, rất tiện lợi cho việc di chuyển.
Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều loại bút bi được phân loại dựa trên thiết kế, màu mực, loại mực, quốc gia sản xuất,.. Tùy vào nhu cầu của người sử dụng, bút bi phân loại dựa trên thiết kế có thể gồm nắp bấm, nắp đậy rất dễ dàng sử dụng. Khi sử dụng chỉ cần bấm ngòi bút sẽ theo lò xo tự động bật ra hay khi mở nắp ngòi bút sẽ hiện ra, khi không sử dụng tiếp tục chỉ cần bấm ngòi hoặc đậy nắp trở lại, bảo vệ ngòi bút được bảo vệ an toàn. Bút bi còn có đa dạng màu sắc như xanh, đỏ, đen, tím,.. tiện lợi để ghi chép, chú thích hay ghi nhan đề bài giảng.
Xét về nguồn gốc thì có rất nhiều bút bi trên thị trường từ nội nhập đến ngoại nhập. So về giá cả, bút bi nội nhập có giá thành rẻ hơn khi chỉ giao động từ 1000 đến 5000 một cây trong khi bút ngoại nhập có giá trị từ 10.000 – 15.000, có những loại bút giá trị lên đến hàng chục nghìn.
Bút bi được bảo quản rất đơn giản, đối với bút bi đậy nắp khi sử dụng xong chỉ cần đậy nắp bảo vệ ngòi. Tương tự như thế với bút ngòi bấm, khi sử dụng xong người sử dụng chỉ cần bấm ngòi bút để bảo quản. Trong quá trình sử dụng, tránh để bút rơi, rớt làm tắc nghẽn mực, gây khó khăn trong sử dụng. Hạn chế để ngòi bút va chạm với những vật có bề mặt cứng gây hư hỏng ngòi bút. Khi dùng xong phải bấm hoặc đậy nút lại ngay để tránh cọ quẹt vào người gây vây mực hay gây xây xát nếu bất cẩn.
Bút bi là người bạn thân thiết đối với các bạn học sinh bởi đó là công cụ để ghi chép bài vở, tài liệu, tích lũy tri thức, đưa các bạn học sinh đến gần hơn với bến bờ tri thức. Bút bi còn được sử dụng để rèn luyện nét chữ, sử dụng cho các cuộc thi viết bởi ông cha ta từng nói “nét chữ nết người”. Ngoài công dụng để viết, bút bi còn là một chất liệu quen thuộc đối với ai đam mê vẽ, chỉ từ một chiếc bút bi đơn giản, đã có rất nhiều tác phẩm xuất sắc được ra đời. Những chiếc bút bi với nhiều màu sắc, kiểu dáng khác nhau cũng là một vật trang trí nhỏ nhắn nằm gọn trong bóp viết hay được trưng bày cho góc học tập thêm phần xinh xắn.
Người bạn thân thiết của tuổi học trò này sở hữu rất nhiều ưu điểm. Giá thành một chiếc bút bi rất rẻ, phù hợp với túi tiền của học sinh. Sở hữu kích cỡ nhỏ gọn, bút bi có thể mang đi khắp mọi nơi, dễ dàng cắm bút bi vào sách, vở để không bị thất lạc. Ngoài ra, bút bi có thể nằm gọn trong túi áo, túi quần học sinh nên không cần nhọc công vận chuyển. Tuy nhiên, bút bi cũng có những khuyết điểm riêng, chỉ cần bị rơi bút bi dễ bị tắc nghẽn mực, rất khó sửa chữa. Khi viên bi ở đầu bút bị va chạm, bút sẽ ra mực không đều khi bị tắc mực, khi bị vấy mực ra giấy gây bất tiện cho người sử dụng.
Bút bi là người bạn rất quan trọng đối với học sinh, là người bạn song hành với bao thế hệ qua những tháng ngày áo trắng. Bút bi không chỉ là bạn của học trò mà còn được sử dụng rộng khắp trong đời sống xã hội, có mặt trong khắp mọi ngành nghề ở khắp mọi nơi. Bút bi từ lâu đã khẳng định được vị trí quan trọng vốn có của nó thế nên ta cần sử dụng, bảo quản người bạn ấy một cách cẩn thận.
Đã bao giờ bạn tự hỏi những đồ vật nhỏ bé, đơn sơ quanh mình có cấu tạo như thế nào? Hay thực sự bản thân mình đã trân trọng những thứ nhỏ bé ấy chưa? Ngày hôm nay, tôi sẽ minh chứng cho các bạn thấy một đồ vật luôn hiện hữu trong cuộc sống, mang đến cho con người nhiều công dụng nhưng lại chẳng được mấy ai đoái hoài đến, đó chính là cây bút bi.
Trên thị trường hiện nay, bút bi có nhiều giá thành khác nhau phù hợp với nhiều đối tượng sử dụng. Do tính phổ biến trong xã hội, bút bi được con người sử dụng hằng ngày với nhiều mục đích khác nhau như học tập, làm việc… Dù có chức năng hay giá thành thế nào cũng không thể phủ nhận tầm quan trọng của chúng.
Bút bi có cấu tạo vô cùng đơn giản: cao khoảng 20cm, dáng người hình trụ thon dài nhọn dần về phía chân nơi gắn viên bi. Người ta chia bút bi thành hai bộ phận chính: vỏ bút và ruột bút. Vỏ bút được làm bằng nhựa hoặc kim loại có in tên nhà sản xuất hoặc những chiếc áo cầu kì hơn là in những họa tiết bắt mắt từ dễ thương đến sang trọng để phù hợp với nhiều đối tượng sử dụng khác nhau. Ruột bút bao gồm phần ống mực và đầu bi. Phần ống mực thuôn dài, nhỏ hơn vỏ bút và nằm trọn trong vỏ bút; được làm bằng nhựa dẻo, rỗng bên trong, là nơi để chứa mực. Đầu bi làm bằng kim loại và có gắn một viên bi tròn rất nhỏ (khoảng 0,5 – 1mm); viên bi này có vai trò vô cùng quan trọng là nơi để mực chảy ra khi viết.
Dựa vào cấu tạo, con người phân chia bút bi ra hai loại bút chính là bút bấm vào bút nắp. Trong phần ruột của bút bấm thường có gắn một chiếc lò xo dài khoảng 3cm có đàn hồi tốt ôm lấy ruột bút từ đầu kim loại gắn viên bi lên trên, phần đầu bút được thiết kế chức năng bấm để mở hoặc tắt bút khi kết hợp cùng chiếc lò xo. Còn bút nắp thường không có lò xo, phần đầu bút cấu tạo đơn giản hơn bút bấm và có một chiếc nắp để mở ra đóng vào khi cần hoặc không cần sử dụng.
Bút bi vô cùng phổ biến trong cuộc sống mà ai ai cũng cần dùng đến và hầu như đều sở hữu. Chúng giúp con người ghi chép lại kiến thức, những điều cần thiết… mỗi người học sinh trưởng thành đều từ những con chữ được viết bằng bút bi. Xã hội ngày càng phát triển, giờ đây con người có thể ghi chép thông tin hoặc kiến thức bằng máy tính, laptop… nhưng bút bi vẫn mãi giữ vai trò, vị trí quan trọng trong lòng mỗi người.
Trong cuộc đời học sinh, có lẽ bút bi đã trở thành một đồ dùng học tập vô cùng quen thuộc đối với mọi người . Cây bút bi đã gắn bó đồng hành với mỗi chúng ta trên những trang giấy hay những bài kiểm tra. Có lẽ vì vậy mà không sai khi nói rằng, bút bi chính là một người bạn đồng hành với mỗi người trong cuộc sống đặc biệt là đối với những bạn học sinh.
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về lịch sử ra đời của cây bút bi tuy nhiên có một câu chuyện rất phổ biến và khá đáng tin cậy về xuất xứ của cây bút bi như sau: Một người Mỹ tên John Loud đã xin cấp bằng sáng chế bút bi vào năm 1888. Cho đến năm 1938, một nhà báo người Hungary mới giới thiệu loại bút bi hiện đại. Vào những năm 1930, László Bíró làm cộng tác viên biên tập cho một tờ báo nhỏ. Điều làm ông thất vọng là việc những cây bút máy luôn làm bẩn giấy tờ và thường xuyên bị hỏng. Một hôm, Bíró ra công viên, thấy một bọn trẻ chơi bi. Một viên bi vô tình chạy qua vũng nước, để lại sau một vệt dài. Viên bi đó khiến ông nảy ra một ý tưởng đặt viên bi ở đầu bút để nó truyền mực trong ống ra giấy. Rồi ông lại được mời đi thăm một xưởng in báo. Bíró để ý rằng, loại mực dùng để in báo rất nhanh khô, nhờ đó giấy không bị mực làm bẩn và ông quyết định tạo ra một loại bút sử dụng loại mực giống như vậy. Từ khi đó, được sự giúp đỡ của anh trai tên George, là một kĩ sư hóa học, Bíró bắt đầu công việc thiết kế ra một loại bút mới. Bíró lắp vào đầu bút một viên bi nhỏ, có thể xoay tự do trong một cái hốc. Khi di chuyển đầu bút trên giấy, viên bi đó xoay tròn, và kéo mực xuống in trên giấy. Bíró nhận bằng sáng chế Anh Quốc vào năm 1938. Và sau đó nhiều chiếc bút bi hiện đại khác cũng được sáng chế và ra đời.
Cấu tạo của bút bi gồm có hai phần chính đó là ruột bút và vỏ bút. Vỏ bút bi hầu hết đều được làm bằng nhựa có màu sắc khác nhau tùy theo từng loại bút hoặc cũng có một số loại bút có vỏ được làm bằng kim loại nhẹ để bảo vệ lớp ruột ở bên trong . Vỏ bút không dài lắm, chỉ từ 12-15cm, rất phù hợp để chúng ta cầm tay viết một cách dễ dàng. Bên trên vỏ có thể in các hình ảnh hoạt hình hoặc các chữ để trang trí cho chiếc bút thêm xinh xắn. Và hầu hết ở phía dưới của vỏ sẽ có ghi tên hãng bút,tên nhà sản xuất và kích cỡ của đầu bút bi. Bên trong chiếc vỏ xinh xắn đó chính là phần ruột của bút. Bộ phận này khá đơn giản chỉ gồm một chiếc ruột bút rỗng bên trong chứa mực để viết và một chiếc lò xo cố định phía đầu bút để thuận tiện cho việc viết lách. Điều đặc biệt là ở đầu ruột bút sẽ có một viên bi nhỏ, kích cỡ chỉ tầm khoảng 5-12mm. Đây chính là bộ phận giúp cho bút có thể viết được và mực có thể ra đều đều. Còn mực bút cũng có rất nhiều loại mực phong phú như đen, xanh, đỏ… rất tiện lợi cho chúng ta lựa chọn thỏa thích. Ngoài ra chiếc bút bi còn có các bộ phận khác như phần nắp bút, nắp bấm… góp phần tạo nên được một chiếc bút bi hoàn hảo.
Chiếc bút bi có vai trò vô cùng quan trọng đối với mọi người trong cuộc sống. Nhờ có nó mà mọi người có thể lưu giữ thông tin trên giấy, sử dụng để ghi chép những tài liệu quan trọng. Đây cũng là phương tiện để chúng ta bày tỏ cảm xúc trên trang giấy thay vì nói ra bằng lời. Đặc biệt đối với học sinh, chiếc bút bi là một đồ dùng không thể thiếu và luôn đồng hành với họ trong mọi lúc mọi nơi. Một chiếc bút bi tốt sẽ giúp học sinh viết nên được một bài văn hay, giải được bài toán khó. Một chiếc bút bi tốt có thể giúp người học sinh viết nên ước mơ tươi đẹp của mình. Một chiếc bút bi tốt sẽ giúp gắn kết những người học sinh lại với nhau qua những dòng lưu bút chia tay… Có thể nói bút bi đã trở thành một người bạn đồng hành của mỗi người học sinh trên con đường bước tới tương lai. Chính vì vậy mà chúng ta càng cần phải biết trân trọng và gìn giữ chiếc bút bi của mình, không để nó bị xây xước hay hỏng hóc.
Mặc dù ngày nay đã có rất nhiều các loại thiết bị điện tử có thể thay thế cho bút bi như máy tính, điện thoại…. nhưng có lẽ chiếc bút bi sẽ mãi là đồ dùng tiện ích nhất đối với tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh. Cây bút bi đã, đang và sẽ mãi là đồ dùng đóng vai trò vô cùng quan trọng không thể thiếu trong cuộc sống của mọi người.
Trong cuộc sống của mỗi con người, đặc biệt là lứa tuổi học trò. Bút bi là một vật dụng quen thuộc vì nó đã gắn bó với chúng ta suốt chặng đường tiếp thu học vấn.
Cây bút bi là một vật dụng rất phổ biến đối với học sinh. Nó có nguồn gốc từ phương tây. Sau một thời gian dài, nó đã du nhập vào nước ta khoảng từ những năm 70, 80 của Thế kỉ XX.
Bút bi có nhiều bộ phận tạo thành. đầu tiên là vỏ bút chất liệu làm bằng nhựa (hay kim loại được phủ sơn). nó được sử dụng để bảo vệ các thiết bị bên trong, ngoài ra còn làm đẹp và làm sang trọng hơn nữa cho cây bút. Thứ hai là khoảng chân không có chức năng phân cách phần vỏ bút với phần bên trong và chứa không khí. tiếp theo là ruột bút có vai trò quan trọng trong số các bộ phận của cây bút vì nó có chứa mực (mực xanh, mực đỏ, mực đen…) có tác dụng giữ mực để đẩy mực ra ngoài. Trong ruột bút ở phần đầu có một viên bi nhỏ để làm điều hòa lượng mực có trong bút. Ở phần vỏ có một lớp đệm làm bằng cao su mềm và dai giúp người cầm bút có một cảm giác dễ chịu, êm ái. Lò xo hoặc ren để gắn kết các bộ phận. Nhìn chung, bút bi có hình dạng trụ tròn, dài. Chiều dài có kích thước khoảng 13 đến 15cm, đường kính khoảng 1cm. Màu sắc bút có rất nhiều như trắng, xanh, đen.
Về chủng loại gồm có hàng ngoại nhập và nội nhập. Có người cho rằng: “hàng ngoại nhập là tốt nhất” nhưng thực ra chưa phải là như thế. So về mặt giá cả, bút bi nội nhập có giá trung bình từ 1000 đồng đến 4000 đồng một chiếc còn bút ngoại nhập có giá từ 5000 đồng đến 10000 đồng, thậm chí còn lên đến 15000 đồng một chiếc. Về chất lượng, bút bi nội nhập và bút bi ngoại nhập cũng có cùng dung tích mực, độ bền như nhau. Nhìn chung, bút bi nội nhập và ngoại nhập cũng tương tự v6è mọi mặt nhưng về giá cả thì có sự chênh lệch khá lớn nên bút nội nhập được lứa tuổi học sinh sử dụng nhiều hơn.
Cách sử dụng bút bi thì rất đơn giản. Chúng ta chỉ cần vặn nhẹ và rút nắp bút lên. Sau đó thì đặt bút xuống để viết. Nếu mực nhạt, ta chỉ cầm phần cuối thân bút vẩy nhẹ vài cái để lưu thông mực. Khi viết xong, chúng ta cần đậy nắp bút lại cẩn thận, tránh làm rớt bút.
Cây bút bi là đồ vật không thể thiếu đối với người học sinh, nó vừa tiện lợi mà cũng rất thông dụng lại hiệu quả cao cho mọi công việc. Không chỉ học sinh mà cả giới doanh nghiệp cũng cần đến bởi họ luôn phải ký những hợp đồng hay những công trình nhận thi công. Bởi lẽ thế nó luôn gắn bó với con người.
Là một trong những dụng cụ không thể thiếu trong đồ dùng học tập của học sinh, là một trong những phát minh độc đáo của con người nhằm phục vụ cho việc lưu giữ, ghi chép lại những sự vật, hiện tượng trong đời sống. Đó chính là cây bút bi – một vật dụng nhỏ bé nhưng vô cùng hữu ích trong cuộc sống, đặc biệt là trong hoạt động học tập của học sinh.
Bút bi là tên gọi của một loại bút mực. Vì loại bút này có đặc điểm sử dụng đó là nhờ sự linh hoạt của viên bi nhỏ đầu bút. Viên bi này có thể lăn qua lăn lại trơn tru, dễ dàng để tạo ra mực mà người ta gọi với cái tên bút bi.
Về mặt cấu tạo thì bút bi có những bộ phận chính sau: Vỏ bút – đây là nơi người viết sẽ cầm để di chuyển bút, tạo ra các đường nét, nó cũng là bộ phận có vai trò bảo vệ ruột bút. Thông thường, vỏ bút thường được thiết kế với kích cỡ vừa tay người cầm, kích cỡ thường thấy của một cây bút bi là khoảng bằng ngón tay trỏ. Đặc biệt là phần chân bút, ở đó có những đường viền nổi, những hoa văn để tạo độ ma sát với tay người sử dụng. Nhờ đó mà cây bút sẽ không bị trơn, bị tuột khỏi tay của người viết. Bộ phận thứ hai của cây bút bi, đó là phần ruột bút. Đây là nơi chứa mực, là bộ phận quan trọng nhất của cây bút. Phần ruột bút rất nhỏ, trong đó có chứa mực, trong quá trình sử dụng, mực bút sẽ được bơm xuống thân bút, giúp cho bút có thể viết ra mực. Tuy nhiên, để viết được thì cây bút không thể thiếu một bộ phận quan trọng đó chính là đầu bút. Đầu bút được làm bằng kim loại, gắn với ống đựng mực. Trên đỉnh của ngòi bút là một viên bi nhỏ có thể di chuyển, viên bi này có thể lăn ra mực, điều tiết được lượng mực không ra nhiều quá, không ra ít quá. Vì kích cỡ viên bi rất nhỏ nên nếu không để ý sẽ khó có thể thấy được. Một bộ phận nữa của cây bút đó chính là lò xo và đầu nhấn của bút. Lò xo làm cho cây bút có độ đàn hồi mà khi người sử dụng nhấn đầu bút thì cây bút có thể bật lên, bật xuống phục vụ mục đích sử dụng và bảo vệ bút. Những bộ phận của cây bút được lắp ráp lại với nhau để tạo ra một cây bút hoàn chỉnh.Thao tác lắp ráp này rất đơn giản, bất cứ ai cũng có thể tháo ra, lắp vào một cách dễ dàng.
Ngày nay, bút bi cũng có rất nhiều mẫu mã,kiểu dáng khác nhau vô cùng bắt mắt mà thuận tiện trong sử dụng. Người mua có thể tự do lựa chọn loại bút mình yêu thích. Màu mực của bút bi cũng rất đa dạng, từ bút mực đỏ, mực xanh, mực tím, mực đen phục vụ được nhu cầu sử dụng, sở thích của mỗi người. Cây bút bi có thể dùng để viết bài, ghi chép những thứ cần ghi nhớ, lưu giữ những sự kiện, những kỉ niệm. Cây bút bi viết rất trơn tru, dễ dàng không bị lem mực, nhòe mực như các loại bút lông, bút máy. Mực của bút viết ra cũng nhanh khô hơn các loại bút khác. Điều đặc biệt, cây bút vô cùng tiện ích này có giá thành sử dụng rất rẻ, từ hai đến ba nghìn đồng một chiếc. Vì vậy mà bút bi được sử dụng phổ biến nhất trong tất cả các loại bút trên thị trường ngày nay.
Bút bi là một phát minh độc đáo, sáng tạo ở thế kỉ hai mươi. Trước đó, loại bút mà ông cha ta sử dụng đó chính là bút lông, loại bút này rất dễ bị lem mực, nếu kĩ thuật viết không tốt thì các chữ sẽ không rõ ràng vì đầu bút rất lớn, khi viết sẽ bị tõe ra các bên. Tuy nhiên, để phục vụ cho nhu cầu sử dụng của con người, đề cao sự tiện ích cho người sử dụng thì cây bút bi đã được ra đời. Khi mới được phát minh, cây bút không được gọn nhẹ và sử dụng dễ dàng như ngày nay, nhưng trong quá trình sử dụng con người đã cải tiến cây bút bi để từ đó có được sự tiện ích như cây bút bi ngày nay.
Bút bi là vật dụng vô cùng hữu ích đối với cuộc sống con người, nó giúp những em học sinh ghi chép lại bài học, ghi chép lại những kiến thức đã được học. Giúp cho người sử dụng ghi chép, lưu giữ từ số liệu, sự kiện và cả những kỉ niệm đáng nhớ trong đời. Vì vậy mà cây bút tuy nhỏ bé, giá cả phải chăng nhưng vai trò của nó đối với cuộc sống của con người thì không nhỏ bé, tầm thường một chút nào.
Đối với những người lao động trí óc, đặc biệt là lứa tuổi học sinh thì có lẽ chiếc bút bi là một vật dụng không thể tách rời. Chiếc bút có rất nhiều công dụng không chỉ với học sinh mà tất cả mọi người không ai dám nói là chưa từng sử dụng đến cây bút bi.
Nếu đang là học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường thì việc sử dụng một cây bút bi là một điều hết sức bình thường. Vì nếu không có bút bi thì học sinh sẽ không học được, không viết được những bài văn, giải được những bài toán và vẽ được những hình họa tinh nghịch. Không chỉ đối với học sinh mà nhiều người khác cũng cần đến chiếc bút bi khi cần thiết. Dù là ai, làm việc gì thì việc sở hữu một chiếc bút bi là điều không thể thiếu.
Còn với những em nhỏ đang học mẫu giáo thì chữ của các em đang còn non nớt, trong quá trình bắt đầu luyện nét điều tối kỵ là sử dụng bút bi vì nét chữ của bút bi vô cùng cứng cáp sẽ khiến các chữ bị vỡ nét và xấu. Quan trọng là các em nhỏ đang trong thời gian đầu tiên luyện chữ vì vậy việc lựa chọn cây bút là vô cùng quan trọng, hãy chọn cho em những cây bút chì, sau đó khi bắt đầu viết được thì luyện chữ bằng bút máy, tốt nhất là lên cấp hai hãy bắt đầu làm quen với bút bi.
Bút bi được phát minh bởi nhà báo Hungari Lazo Biro vào những năm 1930. Sau thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, ông Biro phát hiện ra được một loại mực in giấy rất nhanh khô. Từ đó, ông đầu tư thời gian nghiên cứu và chế tạo ra một loại bút sử dụng loại mực như thế. Hiện nay trong nước ta có một số công ty sản xuất lâu đời và có tiếng trong lĩnh vực văn phòng phẩm nói chung và bút bi nói riêng đó chính là Thiên Long, Bến Nghé. Ở mỗi bên đều có những cấu tạo, mẫu mã riêng tuy nhiên nó đều có chung một công dụng. Bút bi được cấu thành từ hai bộ phận chính là vỏ bút và ruột bút. Bộ phận nào cũng đóng vai trò quan trọng để tạo nên sự trọn vẹn của chiếc bút chúng ta cầm ở trên tay. Bộ phận vỏ bút có thể được làm bằng chất liệu nhựa là phổ biến, hoặc một số loại bút được nhà sản xuất làm bằng kim loại nhẹ. Bộ phận vỏ bút được thiết kế chắc chắn và đẹp, có thể bảo vệ được ruột bút ở bên trong. Vỏ bút được thiết kế theo hình trụ, dài và tròn, có độ dài từ 10-15 cm. Ở trên vỏ bút có thể được sáng tạo bởi nhiều họa tiết đẹp hoặc chỉ đơn giản là có dán tên nhà sản xuất, số lô sản xuất và màu sắc của chiếc bút. Để thu hút người dùng là những bạn nhỏ lớp 6 vẫn ngây thơ và hồn nhiên nhiều nhà sản xuất đã dán thêm những họa tiết như là siêu nhân, hay công chúa. Điều này đánh đúng vào tâm lý người mua muốn sở hữu những chiếc bút có nhân vật mình thích. Hiện nay nhà sản xuất không chỉ tập trung vào cấu tạo mẫu mã của chiếc bút mà có chú trọng đến màu sắc của chúng, có khá nhiều màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng phù hợp với những yêu cầu khác nhau của người dùng. Bộ phận thứ hai chính là ruột bút,giữ vai trò quan trọng để tạo nên một chiếc bút hoàn hảo. Đây là bộ phận chứa mực, giúp mực ra đều để có thể viết được chữa trên mặt giấy. Ruột bút chủ yếu làm bằng nhựa, bên trong rỗng để đựng mực. Ở một đầu có ngòi bút có viên bi nhỏ để tạo nên sự thông thoáng cho mực ra đều hơn. Ở ruột bút có gắn một chiếc lò xo nhỏ có đàn hồi để người viết điều chỉnh được bút trong quá trình đóng bút và mở bút. Ngoài hai bộ phận chính này thì chiếc bút bi còn có nắp bút, nấp bấm, nắp đậy. Tất cả những bộ phận đó đều tạo nên sự hoàn chỉnh của chiếc bút bi bạn đang cầm trên tay.
Sử dụng bút bi rất đơn giản, tùy theo cấu tạo của bút mà sử dụng. Đối với loại bút bi bấp thì bạn chỉ cầm bấm nhẹ ở đầu bút thì có thể viết được. Còn đối với dạng bút bi có nắp thì chỉ cần mở nắp ra là viết được.
Chiếc bút bi tuy có cấu tạo đơn giản nhưng lại có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Bút bi vẽ lên ước mơ của nhiều những cô cậu học trò. Bút bi ký nên nên những bản hợp đồng quan trọng, xây dựng mối quan hệ gắn kết với nhau. Để chiếc bút bi bền và đẹp thì người sử dụng cần bảo quản cẩn thận và không vứt bút linh tinh, tránh tình trạng hỏng bút.
Thật vậy, chiếc bút bi có vai trò quan trọng đối với mỗi người. Chúng ta học tập và làm việc đều cần đến bút bi. Nó là người bạn đồng hành đáng tin cậy nhất.
Đối với tất cả chúng ta thì một đồ dùng không thể thiếu mọi lúc mọi nơi chính là chiếc bút bi. Chiếc bút từ lâu đã trở thành một đồ dùng rất hữu ích đối với chúng ta trong tất cả các công việc để chúng ta có thể ghi chép lại tất cả mọi thứ. Chiếc bút bi đã ra đời với những công dụng cực kỳ quan trọng như thế.
Có hai loại bút bi chính: loại dùng một lần và loại có thể nạp lại mực. Loại dùng một lần chủ yếu được làm từ nhựa dẻo hay nhựa cứng và bỏ đi khi dùng hết mực. Loại có thể nạp lại mực thường được làm bằng kim loại hoặc nhựa có chất lượng cao và dĩ nhiên giá thành cao hơn. Ống mực của loại nạp lại được gồm ống mực và đầu bi gắn liền với nhau. Khi dùng hết mực thì cần phải thay đổi cả ống mực và đầu bi này
Bút bi có thể có nắp để đậy lại khi không dùng đến, hoặc nó dùng cách kéo đầu bi vào trong khi không dùng. Để đưa đầu bi vào trong cần phải có lò xo để kéo vào. Việc điều khiển đầu bi có thể dùng nhiều cách khác nhau như dùng nút bấm ở đầu, xoay thân bút, hoặc trượt.
Bút Space Pens, loại có thể viết được trong trạng thái không trọng lực, được phát minh bởi Fisher, có thiết kế phức tạp hơn. Nó dùng khí nén để dồn mực đổ về phía ngòi bút. Do đó bút này có thể viết khi bút lật ngược lại hoặc trong trạng thái không trọng lượng.
Bút bi hiện diện khắp nơi trong đời sống hiện nay. Mặc dù có nhiều dạng bút khác nhau, nhưng bút bi là dạng phổ biến nhất. Do bút bi rẻ và tiện dụng nên nó có thể được tìm thấy trên bàn, trong túi, giỏ xách, và bất kỳ nơi nào có thể cần đến bút.
Những năm gần đây, bút bi cũng trở thành phương tiện sáng tác nghệ thuật. Nhiều người cũng dùng bút bi để vẽ hình lên người họ, còn được gọi là hình xăm bằng bút bi. Vì lý do này, cùng với sự phổ biến đối với trẻ nhỏ, mực bút bi phải không độc, và việc sản xuất bút và thành phần mực đã được quy định ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Hiện nay ngày càng nhiều những kiểu dáng đẹp và lạ. Rồi cóc cả những loại bút trong điều kiện bình thường và trong những điều kiện khí áp khí quyển thay đổi. Thậm chí còn có những loại bút trong những điều kiện bất thường không trọng lượng hoặc ở dưới nước. Có loại bút chỉ có một ngòi nhưng cũng có loại bút có đến hai ba bốn ngòi với rất nhiều những ngòi màu khác nhau như đỏ đen xanh rất hữu ích cho việc ghi chép và học tập của chúng ta. Tuy đủ màu sắc và kiểu dáng phong phú thế nhưng cũng chỉ có hai loại đó là loại dùng một lần rồi bỏ và loại thay ngòi rồi có thể dùng tiếp. Tuy bút bi rất tốt và mang nhiều công dụng thế nhưng đối với những em nhỏ đang tập viết hay chưa cứng khi viết thì không nên sử dụng loại bút này. Chúng ta không nên chỉ vì bút bi có giá thành rẻ hơn mà để cho em nhỏ sử dụng chúng như thế rất không tốt.
Bút bi có rất nhiều công dụng và theo thời gian nó vẫn là một dụng cụ không thể thay thế được trong cuộc sống của chúng ta. Bút bi luôn gắn với lứa tuổi học trò trên những trang nhật ký đầy nét bút yêu thương.
….
Phát triển song song với lịch sử hình thành và phát triển chữ viết của nhân loại là quá trình ra đời và phát triển của cây bút. Cây bút có mặt từ rất sớm trong buổi đầu văn minh nhân loại. Cho đến ngày nay, dù trải qua không biết bao thăng trầm, cây bút vẫn giữ một vai trò quan trọng trong công việc ghi chép của con người.
Nguồn gốc ra đời của cây bút.
Bút có mặt trong đời sống con người từ rất lâu rồi. Khoảng 3000 năm trước Công nguyên, người Ai Cập cổ đã tạo ra những cây bút bằng sậy để viết lên giấy papyrus. Cũng khoảng 3000 năm trước Công nguyên, người Trung Hoa cổ đã sử dụng bút lông để viết chữ, bút lông cùng với thỏi mực, nghiên mực, giấy tuyên chỉ trở thành “Văn phòng tứ bảo” (Bốn báu vật dùng để học tập).
Những cổ vật ở Pompeii, trong đó có những ngòi bút bọc đồng, cho thấy ngòi bút đã ra đời vào khoảng năm 79 sau Công nguyên. Bút mực được phát minh vào đầu thế kỉ XIX, những năm 1880, bút mực được sản xuất hàng loạt, dùng một chiếc ống hút bơm mực vào ruột bút hoặc nhúng bút vào bình mực.
Những năm 1950, bút bi được phát minh bởi nhà báo Biro, cũng trong năm này, những ống mực dùng một lần được phát triển. Năm 1957, bút bi nhanh chóng trở thành loại bút được ưa chuộng nhất trên toàn thế giới.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kĩ thuật, các loại bút liên tục được cải tiến: bút 3D có thể tạo ra những vật thể trong không gian ba chiều, bút viết mực tàng hình…Nhìn chung, bất kì loại bút nào cũng có hai phần cơ bản, phần ngòi bút (dùng để viết) và phần thân bút (để người sử dụng cầm). Ngòi bút có thể làm bằng kim loại, chì, sợi tổng hợp… Thân bút cũng có nhiều chất liệu: kim loại, nhựa, sừng, xương, thậm chí cả thủy tinh.
Đặc điểm các loại bút thường dùng.
Bút bi.
Bút bi (tiếng Pháp: bille), hay còn gọi là bút Bic (theo tên một công ty của Pháp, chuyên sản xuất bút là Société Bic), hoặc bút nguyên tử, là một công cụ dùng để viết rất phổ biến ngày nay. Bút bi có chứa một ống mực đặc, khi viết, mực được in lên giấy là nhờ chuyển động lăn của một viên bi nhỏ, với đường kính khoảng từ 0,5 đến 1.2 mm, gắn nơi đầu ống chứa mực. Loại mực dùng cho bút bi khô rất nhanh, ngay sau khi được viết lên giấy.
Có hai loại bút bi chính: loại dùng một lần và loại có thể nạp lại mực. Loại dùng một lần chủ yếu được làm từ nhựa dẻo hay nhựa cứng và bỏ đi khi dùng hết mực. Loại có thể nạp lại mực thường được làm bằng kim loại hoặc nhựa có chất lượng cao và dĩ nhiên giá thành cao hơn. Ống mực của loại nạp lại được gồm ống mực và đầu bi gắn liền với nhau. Khi dùng hết mực thì cần phải thay đổi cả ống mực và đầu bi này.
Bút Space Pens, loại có thể viết được trong trạng thái không trọng lực, được phát minh bởi Fisher, có thiết kế phức tạp hơn. Nó dùng khí nén để dồn mực đổ về phía ngòi bút. Do đó bút này có thể viết khi bút lật ngược lại hoặc trong trạng thái không trọng lượng.
Bút máy.
Bút máy hay viết máy (phương ngữ miền Nam) là loại bút có một bầu chứa mực viết lỏng. Mực được dẫn tới ngòi bút qua một hệ thống dẫn bằng mao dẫn và trọng lực. Mực có thể chứa trong một hộp nhỏ bằng nhựa lắp trong bầu bút hoặc trong ruột cao su.
Loại dùng ruột cao su cổ hơn, khi lấy mực phải cắm bút vào lọ mực và dùng tay bóp ruột cao su để hút mực từ lọ. Loại dùng hộp mực chỉ cần thay hộp mực khác.
Bút chì.
Bút chì là một đồ dùng để viết hoặc vẽ trên giấy hoặc gỗ, thường có lõi bằng chất liệu than chì và các hợp chất của nó hoặc tương tự, vỏ làm bằng gỗ hoặc giấy ép, được phát minh vào năm 1795 bởi Nicolas-Jacques Conte, là nhà khoa học phục vụ trong quân đội của Napoleon Bonaparte.
Có hai loại bút chì: bút chì thường màu đen và bút chì màu có nhiều màu sắc. Bút chì đen thường được sử dụng để viết nháp hoặc tập viết còn bút chì màu được dùng trong hội họa, tô màu là chủ yếu.
Bút dạ quang.
Bút dạ quang là bút dùng để đánh dấu đoạn văn bản chữ bằng màu sáng nổi bật. Bút dạ quang có đủ loại màu, thông thường là màu vàng sáng. Bút dạ quang có thể viết lên nhiều chất liệu khác nhau và có thể đọc được trong môi trường thiếu ánh sáng
Bút lông.
Bút lông là loại bút đầu có búp/túp lông dạng tròn, dẹt, nhọn… cán dài nhiều cỡ. Bút có cấu tạo đơn giản gồm cán bút để cầm viết; lông để hút mực và chuyển mực lên giấy. Theo thời gian cây bút lông có thay đổi về vật liệu chế tạo với mục đích làm sao chữ viết được tinh xảo hơn và lông gắn vào quản bút cho chắc chắn, khéo léo hơn. Ngoài trúc, người ta còn dùng các loại vật liệu khác như gỗ, ngà, ngọc và cả kim loại như đồng, sắt, vàng, bạc để làm quản bút.
Bút 3D.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, ngày nay các hình vẽ không chỉ nằm trên mặt phẳng giấy 2D, mà còn có thể trở thành vật thể trong không gian ba chiều nhờ vào công nghệ 3D, với chiếc bút này, người dùng có thể tạo ra những đồ vật hàng ngày như mô hình tháp Eiffel, chiếc ghế, chiếc bàn… Nguyên lý hoạt động của chiếc bút này đó là làm nóng vật liệu nhựa đặc biệt để người dùng tạo hình, sau khi khô thì vật liệu này sẽ rất cứng cáp và vững chãi.
Cách sử dụng và bảo quản bút viết.
+ Cần có hộp bút để tránh làm mất, thất lạc.
+ Tránh làm rơi bút để không bị hỏng ngòi.
Vai trò, ý nghĩa của bút viết.
Công dụng chính của bút là để ghi lại những suy nghĩ của con người. Cho nên, có thể nói, bút gắn liền với đời sống tinh thần của chúng ta. Người ta cho rằng “nét chữ, nét người”, người bạn đầu đời của học sinh chính là cây bút. Nhất là ở một nước có truyền thống hiếu học như Việt Nam, cây bút càng có vai trò quan trọng. Có những công trình kiến trúc được xây dựng dựa trên hình dáng ngọn bút như Tháp bút, đài nghiên ở Hà Nội với dòng chữ “Tả thanh thiên” (viết lên trời xanh)… Cây bút là giả của tâm hồn, là người thư kí trung thành chuyển chở những tâm tư, tình cảm của con người.
Ngày nay, dù có nhiều dụng cụ ghi chép mới ra đời, tiện dụng và tiết kiệm hơn nhưng cũng không thể nào thay thế được vai trò của cây bút bi trong công việc và đời sống của con người. Cây bút bi tiếp tục để lại dấu ấn tốt đẹp và vĩ đại trong lịch sử phát triển của nhân loại.
…
Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chiếc Bánh Chưng Ngày Tết 2 Dàn Ý &Amp; 25 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8
Dàn ý thuyết minh về chiếc bánh chưng (2 mẫu)
Thuyết minh bánh chưng ngày Tết
Thuyết minh về bánh chưng ngắn gọn (11 mẫu)
Thuyết minh về bánh chưng đầy đủ (8 mẫu)
Thuyết minh về cách làm bánh chưng (4 mẫu)
Thuyết minh về phong tục gói bánh chưng ngày Tết
1. Mở bài
Giới thiệu chung về đối tượng thuyết minh: bánh chưng.
2. Thân bài
a. Nguồn gốc và hình dáng, đặc điểm của bánh chưng
Nguồn gốc: gắn liền với câu chuyện “Bánh chưng bánh giầy” và nhân vật hoàng tử Lang Liêu.
Hình dáng, đặc điểm: vuông vức.
b. Nguyên liệu để làm bánh chưng
Nguyên liệu bên ngoài: lá dong hoặc lá chuối.
Nguyên liệu bên trong: nếp, đậu xanh, thịt mỡ.
c. Cách thức làm bánh
Gói bánh
Nấu bánh
Thưởng thức bánh
d. Ý nghĩa của bánh chưng
Là một món ăn tiêu biểu tượng trưng cho ngày Tết.
Ẩn dụ cho ý niệm cho mong ước về cuộc sống ấm no.
Đề cao thành tựu nông nghiệp cùng nền văn minh lúa nước.
3. Kết bài
Khẳng định lại ý nghĩa và tác dụng của bánh chưng trong đời sống tinh thần, tâm thức của người Việt.
Bánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền. Từ xa xưa, cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, người người nhà nhà lại chuẩn bị những nồi bánh chưng rất lớn để đón Tết. Bởi trong suy nghĩ của mỗi người, bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum họp, sum họp giản dị mà đầm ấm.
Người xưa vẫn cho rằng, bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu đời. Người ta vẫn tin rằng bánh chưng, bánh giầy có từ thời Hùng Vương thứ 6 và cho đến ngày nay nó đã trở thành biểu tượng của Tết cổ truyền Việt Nam. Người ta luôn quan niệm rằng, bánh chưng chứng tỏ sự đủ đầy của đất trời và sự sum họp của gia đình sau một năm làm việc tất bật, vội vã. Dù ở miền Bắc, miền Trung hay miền Nam, bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhất, bởi Tết là ngày được thưởng thức những chiếc bánh chưng thơm ngon và ấm áp nhất.
Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chính là gạo nếp, lá dong, thịt và đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được lựa chọn cẩn thận để có thể tạo ra món ăn thơm ngon nhất. Còn gạo nếp, người ta chọn những hạt tròn mẩy, không mốc để khi nấu dậy mùi thơm dẻo của gạo nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp mắt, đồ chín mềm rồi giã nhỏ làm nhân bánh. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc dăm, trộn với tiêu xay, hành tím băm nhuyễn. Một nguyên liệu không kém phần quan trọng khác là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác, người ta dùng lá chuối để gói bánh nhưng phổ biến nhất vẫn là lá dong.
Lá phải có màu xanh đậm, gân khỏe, không bị héo, rách. Hoặc nếu lá bị rách có thể lót mặt trong của lá lành để gói. Việc rửa lá dong và cắt bỏ cuống cũng rất quan trọng vì lá dong sạch vừa đảm bảo vệ sinh, vừa tạo mùi thơm sau khi nấu bánh.
Sau khi chuẩn bị đầy đủ các nguyên liệu là đến công đoạn gói bánh. Gói bánh chưng cần sự cần mẫn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn dâng cúng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần khuôn vuông để gói nhưng cũng nhiều người không, chỉ cần gập bốn góc của lá dong là có thể gói được. Bao quanh nhân đậu và thịt là một lớp xôi dày. Chuẩn bị dây để bọc, giữ cho ruột bánh săn chắc, không bị nhão trong quá trình nấu.
Nướng bánh được coi là một công đoạn quan trọng. Thông thường người ta nấu bánh bằng củi khô, nấu trong nồi to, đổ ngập nước và nấu trong khoảng 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như vậy để đảm bảo bánh chín đều và mềm. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Khi đó, mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết bao trùm khắp nhà.
Bánh chưng sau khi chín được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo độ chắc cho bánh khi cắt ra đĩa và để được lâu hơn.
Mâm cơm ngày Tết không thể thiếu đĩa bánh chưng. Cũng giống như trên bàn thờ ngày Tết, đôi bánh chưng để dâng lên ông bà tổ tiên là phong tục được lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự hoàn hảo của đất trời, cho những gì nhân hậu nhất, ấm áp nhất của lòng người.
Ngày Tết, nhiều người hay tặng bánh chưng làm quà, đây là món quà ý nghĩa tượng trưng cho sự chân thành, gửi gắm lời chúc trọn vẹn nhất.
Mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng bánh chưng là biểu hiện cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng của ngày Tết mà không một loại bánh nào khác có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của người Việt Nam, cần được giữ gìn và trân trọng từ xưa, hôm nay và cả mai sau.
Bánh chưng là một trong những món ăn không thể thiếu trong mỗi gia đình Việt Nam mỗi dịp Tết đến xuân về. Từ bao đời nay, bánh chưng đã như một món ăn gắn bó, sum vầy, mang đậm hương vị Tết cổ truyền dân tộc.
Truyện xưa kể rằng, từ đời Hùng Vương thứ 6, hoàng tử Lang liêu đã được vua cha lựa chọn để truyền ngôi với món bánh chưng, một thức bánh làm từ lúa gạo, do chính con người làm ra. Bánh chưng thường đi liền với bánh dày, nếu như bánh dày hình tròn, tượng trưng cho trời thì bánh chưng lại hình tượng trưng cho đất, con người luôn phải biết ơn mảnh đất đã sinh ra và nuôi sống chúng ta. Bánh chưng bao gồm những nguyên liệu rất đơn giản: Lá dong dùng để gói bánh, gạo nếp làm vỏ bánh và đỗ xanh, thịt lợn, hành làm nhân bánh. Để chuẩn bị gói bánh chưng, ta phải chuẩn bị những lá dong với nhiều kích cỡ, rửa sạch. Gạo nếp và đỗ xanh phải được ngâm sẵn, thịt lợn thái miếng và hành thái lát mỏng. Sau đó đến công đoạn gói bánh chưng. Ngày trước ông bà ta gói bánh chưng thuần túy bằng tay, nhưng bây giờ thường có khuôn để gói bánh được vuông vắn và dễ dàng hơn. Đầu tiên là đặt hai chiếc lạt biên dưới khuôn, sau đó xếp một lớp lá dong vuông vắn lên bốn mép khuôn. Tiếp theo là một lớp gạo nếp. Sau khi đã đổ gạo nếp lần thứ nhất, ta sẽ cho nhân bánh chưng gồm có đỗ, thịt và hành vào, xan đều ra giữa bánh rồi lại đổ thêm một lớp gạo nếp nữa. Cuối cùng là gói bánh lại và dùng lạt để cố định bánh cho chắc chắn. Khi gói bánh ta không nên xê dịch để tránh bị góc lệch. Những chiếc bánh chưng được coi là đạt tiêu chuẩn khi phần gạo và nhân bánh được nằm vuông vắn trong lớp lá, khi gói bánh chưng, không được cho lớp lá quá mỏng hay rách bởi nếu vậy khi luộc ruột bánh sẽ bị bung ra ngoài. Sau khi gói xong bánh chưng, ta cần chuẩn bị một nồi lớn để luộc bánh, thường thì sẽ luộc bánh chưng bằng bếp củi vì mất khá nhiều thời gian, xếp lần lượt bánh chưng vào nồi sau đó đổ nước vào, để lửa cháy âm ỉ trong khoảng 6-10 tiếng. Bánh chưng cần luộc lâu để chín đều và mềm thơm. Sau khi luộc xong bánh chưng cần được ép cho vuông vắn. Lúc ấy một chiếc bánh chưng mới hoàn chỉnh.
Bánh chưng thường được dùng để cúng ông bà tổ tiên, mang làm quà biếu tặng mỗi dịp Tết đến xuân về, vừa gần gũi lại vừa lịch sự. Bóc bánh chưng, màu bánh phải xanh màu lá dong, gạo phải mềm và chín tới mới ngon. Bánh chưng không cắt bằng dao mà dùng chính lạt gói bánh để cắt rất dễ dàng. Lớp vỏ bánh dính chặt và thơm mùi gạo nếp, mùi lá dong, đỗ bở tới, quyện với thịt lợn và hành tươi tạo nên một hương vị độc đáo và riêng biệt. Bánh chưng thường được ăn kèm với hành muối và dưa món,… Những chiếc bánh chưng trong mâm cơm ngày Tết vừa là món ăn thân thuộc vừa là mong chờ và niềm chúc cho những điều tốt đẹp trong năm mới sẽ đến với mỗi gia đình.
Cho dù xã hội có phát triển đến đâu, những món ăn mới và ngon như thế nào có ra đời, vị trí của bánh chưng trong mỗi dịp lễ trọng đại của dân tộc vẫn không thể thay thế. Món bánh chưng mộc mạc giản dị mà đầy ý nghĩa, vừa là sự biết ơn với ông cha ta, vừa là nét đẹp văn hóa không thể phai mờ.
Nếu như Hàn Quốc có kim chi và canh rong biển, Nhật Bản có cơm sushi thì Việt Nam lại nền nã y như nó vốn có với món bánh chưng truyền thống.
Mỗi loài hoa sẽ có một hương thơm riêng, mỗi dân tộc sẽ có một bản sắc văn hóa và phong tục tập quán đặc trưng không trộn lẫn. Một trong những yếu tố tạo nên Văn hóa bản sắc dân tộc là văn hóa ẩm thực. Vâng, và chúng ta đang nói đến dân tộc Việt Nam dịu dàng và duyên dáng với chiếc áo dài duyên dáng, dưới chiếc nón lá xinh xinh và du dương trong những câu quan họ ngọt ngào nồng đượm. Chắc có lẽ bởi thế mà bánh chưng- một món ăn giản dị đã trở thành món ăn truyền thống của dân tộc ta từ bao đời nay.
Truyền thuyết kể rằng, vào thời vua hùng thứ sáu, nhà vua đã già và muốn truyền ngôi cho con nhưng chưa biết chọn ai trong số những người con trai của mình. Bởi thế, vua Hùng bèn gọi các con lại và nói rằng nếu ai tìm được món ăn ngon nhất để cúng Tiên Vương thì sẽ được nối ngôi. Các Lang nghe vua cha nói vậy, bèn kẻ lên rừng, người xuống bể tìm của ngon vật lạ, sơn hào hải vị để mang về cúng Tiên vương. Người con thứ mười tám của nhà vua là Lang Liêu, mẹ chàng bị vua cha ghẻ lạnh đâm sinh bệnh rồi chết. Từ nhỏ, chàng đã sống ở ngoài cung vua, hòa nhịp với cuộc sống của nhân dân lao động. Chàng vốn tính tình thuần hậu, chí hiếu nhưng lực bất tòng tâm , không biết kiếm của ngon vật lạ ở đâu để dâng lễ Tiên Vương. Vào đêm trước ngày tế lễ, chàng nằm mộng thấy có người chỉ rằng:” Vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo, là thức ăn nuôi sống con người. nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông tượng trưng cho trời đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”. Lang Liêu tỉnh giấc, bèn làm theo lời thần dặn làm bánh cúng Tiên Vương và được vua hùng truyền ngôi cho. Từ đó, bánh chưng trở thành một vật không thể thiếu trong mỗi dịp lễ tết trong dân gian Việt Nam.
Bánh chưng hình vuông, được gói bằng lá rong màu xanh rất đẹp mắt. Đó là một món ăn giản dị xuất phát từ một nền văn minh lúa nước. Nguyên liệu chính để làm bánh là gạo nếp, đỗ xanh, hành củ, hạt tiêu và thịt lợn. Gạo càng ngon thì bánh sẽ càng dẻo. Thịt lợn phải là thịt ba chỉ vừa nạc vừa mỡ. Thịt quá nạc bánh sẽ bị khô và ngược lại thịt quá mỡ sẽ khiến cho bánh ăn bị ngấy, mau chán Khi gói bánh, sau một lớp gạo lè đến một lớp đỗ, nhân là thịt lợn và hành được cho ở giữa rồi tiếp tục đến một lớp đỗ, rồi một lớp gạo. Lá dong là lá được dùng để gói bánh chưng vì có màu xanh rất đẹp và dịu, lại không làm mất đi hương vị của bánh. Khi gói phải gói thật kín, để khi luộc nước không thể vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chặt, chắc nhưng phải khéo. Gói lỏng tay, bánh không ngon. Song nếu quá chắc, bánh cũng không ngon.
Độc đáo nhất là, bánh chưng được nấu trong thời gian dài, 8-10 tiếng đồng hồ. phải để lửa vừa phải, không to quá và cũng không bé quá. Tuy gọi là luộc bánh chưng nhưng nước không trực tiếp tiếp xúc với nguyên liệu được luộc (gạo nếp, đỗ, thịt lợn,…) nên là hình thức hấp hay chưng giúp giữa nguyên được vị ngon của gạo đỗ và thịt. Chắc có lẽ vì cách chế biến ấy mà người ta mới gọi thứ món ăn bổ dưỡng ấy là bánh chưng. Thời gian luộc bánh lâu nên các hạt gạo mềm ra như quyện vào nhau, không giống như khi đồ xôi. Khi hạt gạo nhừ mà quyện vào nhau như thế người ta gọi là bánh chưng “rề”, tức là bánh chưng đó đã đạt đến độ quyện dẻo như ý, là bánh ngon. Cũng nhờ đặc điểm thời gian làm chín bánh lâu, lại trong nước sôi nên nhân bánh là đỗ hay thịt có đủ thời gian để nhừ ra, hòa quyện đan cài các hương vị vào với nhau tạo nên một món ăn hoàn chỉnh nhất. Đó phải chăng cũng là quan niệm sống hòa đồng, hòa quyện, cởi mở của dân tộc ta?
Chế biến bánh chưng không khó nhưng cần công phu tỉ mỉ và bàn tay khéo léo. Đó cũng chính là những đức tính cao đẹp của con người Việt Nam.
Tết Nguyên Đán ở Việt Nam là cái Tết cổ truyền đã có tự ngàn xưa với: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Trên bàn thờ ngày Tết của mỗi nhà, nhất thiết phải có bánh chưng. Giai thoại kể rằng hoàng tử Lang Liêu con vua Hùng đã được thần linh mách bảo, dùng lá dong, gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn… làm ra thứ bánh này để cúng Trời Đất, Tiên Vương và dâng lên vua cha. Nhờ đó mà chàng được vua cha truyền lại cho ngôi báu. Cũng từ đấy, bánh chưng được dùng để cúng vào dịp Tết. Tục lệ tốt đẹp ấy còn tồn tại cho tới ngày nay.
Nhìn chiếc bánh chưng, ta thấy mộc mạc, giản dị vô cùng, nhưng để làm ra nó lại tốn không ít công phu. Cứ đến hàm bảy, hăm tám Tết là các bà phải lo đi chợ mua lá dong cùng với mấy bó lạt giang. Lá dong phải to bản, lành lặn. Tốt nhất là lá dong bánh tẻ, không già, không non thì gói bánh mới đẹp. Lạt giang chẻ sẵn, mỏng và mềm, màu vàng ngà, rất ăn ý với lá dong xanh. Gạo nếp cái hoa vàng vừa dẻo vừa thơm được ngâm từ đêm trước, đem xả rồi xóc cho ráo nước. Đậu xanh đãi sạch vỏ. Thịt lợn xắt miếng to cỡ nửa bàn tay ướp muối, tiêu, hành chó thấm. Lá dong đã được cắt cuống, rửa sạch, lau khô… Tất cả bày sẵn ra chiếc nong, chờ người gói.
Cái cách gói bánh chưng ngày Tết mới vui vẻ và đầm ấm làm sao! Cả nhà quây quần quanh bà. Bà trải lá ra mâm, đong một bát gạo đổ vào, dàn đều rồi đổ nửa bát đỗ, xếp hai miếng thịt, lại thêm nửa bát đỗ, một bát gạo nữa. Tay bà khéo léo đãi gạo che kín đỗ và thịt rồi nhẹ nhàng bẻ bốn góc lá cho vuông vức, sau đó siết chặt từng chiếc lạt. Chẳng mấy chốc, chiếc bánh chưng đã được gói xong. Suốt một buổi sáng cặm cụi, bận rộn, bà đã gói hết thúng gạo. Bố tôi buộc hai cái thành một cặp rồi xếp vào chiếc nồi thật lớn, chuyên dùng để luộc bánh. Đám trẻ chúng tôi được bà gói cho mỗi đứa một chiếc bánh chưng be bé. Chùm bánh ấy để ở trên cùng và sẽ vớt ra trước nhất.
Phía góc sân, bốp lửa đã cháy đều. Năm nào, ông tôi hoặc bố tôi cũng giữ nhiệm vụ canh lửa, canh nước cho nồi bánh chưng. Những khúc tre, khúc củi khô tích trữ quanh năm giờ được đem ra đun. Ngọn lửa nhảy nhót réo ù ù, tàn than tí tách bắn ra xung quanh những chấm đỏ rực trông thật vui mắt. ông tôi bảo phải đun cho lửa cháy thật đều thì bánh mới, không bị hấy. Anh em tôi xúm xít bên ông, vừa hơ tay cho khỏi cóng, vừa nghe ông kể chuyện ngày xửa ngày xưa. Đến những đoạn thú vị, ông cười khà khà, rung cả chòm râu bạc.
Khoảng tám giờ tối thì bố tôi dỡ bánh, xếp rải ra trên chiếc chõng tre ngoài hiên. Hơi nóng từ bánh bốc lên nghi ngút, tỏa ra một mùi thơm ngậy, nồng nàn. Bố tôi đã chuẩn bị hai tấm ván gỗ và chiếc cối đá để nén bánh.
Khó có thể tả nỗi niềm sung sướng, hân hoan của lũ trẻ chúng tôi khi được nếm chiếc bánh chưng nhỏ xinh, nóng hổi. Nếp dẻo, đỗ bùi, thịt béo… ngon quá là ngon! Tưởng chừng như chẳng có thứ bánh nào ngon hơn thế!
Chiều ba mươi Tết, trên bàn thờ đèn nến sáng trưng, hương trầm nghi ngút, những cặp bánh chưng xanh được trân trọng bày bên cạnh đĩa ngũ quả, hộp trà, hộp mứt, chai rượu… và mâm cỗ tất niên để cúng trời đất, tổ tiên, đón các cụ về ăn Tết cùng con cháu. Nỗi xúc động rưng rưng trong lòng mỗi người. Không khí thiêng liêng của ngày Tết thực sự bắt đầu.
Dân tộc nào cũng có thức ăn truyền thống. Song chưa thấy dân tộc nào có một thức ăn vừa độc đáo, vừa ngon lành, vừa bổ, vừa gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời, lại vừa có nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh như bánh chưng, bánh giầy của Việt Nam.
Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất, âm. Bánh dày hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt Nam nói riêng.
Bánh chưng âm dành cho Mẹ, bánh dày dương dành cho Cha. Bánh chưng bánh dày là thức ăn trang trọng, cao quí nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.
Theo truyền thuyết, bánh chưng bánh dầy có từ thời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân.Vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”.
Các con trai đua nhau kiếm của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng Vương thứ 6 là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu), tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy Thần Đèn bảo: ”Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.
Lang Lèo (sau có người gọi Lang Liêu) tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh thật tốt, thịt lợn (heo) ba rọi dày thật tươi. Đến hẹn, các lang (con vua) đều đem cỗ tới, đủ cả sơn hào hải vị. Lang Lèo chỉ có bánh dầy bánh Chưng. Vua lấy làm lạ hỏi, ông đem thần mộng tâu lên. Vua nếm bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa hay, bèn truyền ngôi cho Lang Lèo, tức đời vua Hùng Vương thứ 7. Từ đó, cứ đến Tết nguyên đán hay các đám cưới, đám tang, dân gian bắt chước làm theo, sau thành tục lệ để cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất.
Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hay Đông Nam Á. Người Trung Hoa ưa chế biến từ bột mì hơn; người Ấn Độ thì ưa chế biến từ kê… Thịt lợn hay heo được coi là lành nhất, nên các bệnh viện ngày nay thường chỉ sử dụng loại thịt heo chứ không dùng thịt bò hay thịt gà là thức ăn chính cho bệnh nhân. Người Việt thích thịt luộc hay nấu. Đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Bánh chưng như thế rất nhiều chất, đặc trưng của các món ăn Việt Nam. Độc đáo hơn nữa, khi nấu trong một thời gian khá dài thường trên 10 tiếng, phải để lửa râm râm, bánh mới ngon. Nấu bằng lò gas, tuy nhanh, nóng quá cũng sẽ không ngon. Vì được gói bằng lá dong, bánh chưng vừa xanh vừa đẹp, thơm hơn lá chuối. Phải gói thật kín, không cho nước vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chặt, chắc; gói lỏng tay, ăn không ngon. Song nếu chắc quá, bánh cũng không ngon.
Tuy gọi là luộc (người Việt Nam thích luộc, người Trung Quốc thích quay), song vì nước không tiếp xúc với vật liệu được luộc, nên lại là hình thức hấp hay chưng (chưng cách thủy), khiến giữ nguyên được chất ngọt của gạo, thịt, đậu!
Có lẽ vì cách chế biến bằng chưng, nên mới gọi là bánh chưng. Vì thời gian chưng lâu nên các hạt gạo mềm nhừ quyện lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”, khi hạt gạo nhừ quyện vào nhau như thế, người ta gọi bánh chưng “rền”. Vì nấu lâu như thế, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đậu đen nhừ. Cũng vì thời gian chưng lâu, khiến các chất như thịt, gạo đậu nhừ, có đủ thời gian chan hòa, ngấm vào nhau, trở thành hương vị tổng hợp độc đáo, cũng mang một triết lý sống chan hòa, hòa đồng của dân tộc ta. Cách chế biến như thế rất độc đáo, công phu. Bánh chưng nhất là bánh dầy có thể để lâu được. Khi ăn bánh chưng, người ta có thể chấm với các loại mật hay với nước mắm thật ngon, giàu chất đạm; cũng có thể ăn thêm với củ hành muối, củ cải dầm hay dưa món… Dân Bắc Ninh xưa thích nấu bánh chưng, nhân vừa thịt vừa đường!
Bánh chưng, bánh dầy quả thật là một món ăn độc đáo có một không hai của dân tộc. Bánh chưng là một trong những bằng chứng cụ thể chứng tỏ văn hóa ẩm thực Việt Nam có nhiều tiềm năng khiến Việt Nam trở thành một cường quốc về văn hóa ẩm thực!
….
Trong dân gian, mỗi dịp xuân về người ta vẫn thường nghe câu:
Vâng đúng vậy, bánh chưng đã trở biểu tượng không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam ta. Từ xa xưa đến nay, hình ảnh nhà nhà tất bật chuẩn bị quây quần bên nồi bánh chưng để đón Tết vô cùng quen thuộc với chúng ta. Bởi trong tâm thức của mỗi người thì bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum vầy, đoàn viên.
Tương truyền trong câu nói của ông bà ta rằng bánh chưng ngày Tết đã có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại nước ta. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng là minh chứng cho sự đủ đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật.
Cho dù chúng ta có ở bất cứ đâu trên mảnh đất hình chữ S này thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức những chiếc bánh chưng ngon và ấm áp nhất. Nhưng nếu bạn tới các vùng miền khác nhau thì bạn sẽ được thưởng thức hương vị cũng như thấy được cách làm đặc trưng ở mỗi nơi có điểm khác nhau.
Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những nguyên liệu rất đơn giản và thân quen với đời sống nhân dân. Nguyên liệu chính là gạo nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ (hoặc nhân đậu hấp). Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kỹ để có thể tạo nên món ăn ngon và đậm đà nhất. Về phần gạo nếp thì ta chọn những hạt tròn lẳn, đều hạt, không bị mốc, khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Thịt ba chỉ hoặc thịt nạc cần trộn với tiêu xay, nêm nếm vừa ăn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong. Lá gói bánh cần lau sạch, bỏ cuống, cắt thành miếng hoặc theo khuôn bánh để bánh có bề ngoài bắt mắt.
Việc lựa chọn lá gói bánh vô cùng quan trong. Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành hoặc cắt đệm lá để gói sao cho giữ được hình vuông vắn và khi luộc bánh không bị vỡ. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm đặc trưng sau khi nấu bánh.
Sau khi chuẩn bị xong tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để có được những chiếc bánh vuông vắn dâng lên ông bà tổ tiên. Nhiều người sử dụng khuôn vuông để gói nhưng nhiều người lớn có nhiều năm kinh nghiệm thì không cần, họ chỉ cần gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được một chiếc bánh vô cùng đẹp. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp gạo nếp thật dày, phủ kín. Chuẩn bị dây lạt để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.
Gói bánh đã khó thì công đoạn luộc bánh cũng vô cùng quan trọng. Thông thường mọi người luộc bánh trong một nồi to, đổ đầy nước và sử dụng củi khô, to để luộc trong khoảng từ 8 – 12 tiếng. Thời gian luộc bánh lâu như thế là vì để đảm bảo bánh sẽ chín đều và đạt được độ dẻo. Khi nồi bánh sôi cũng là lúc mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Khi đó ta mới cảm nhận được không khí Tết mới trọn vẹn.
Sau khi chín, bánh chưng được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn.
Đối với mâm cơm cúng ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiếu. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng không chỉ tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người mà nó còn là những tình cảm đong đầy gắn kết của cả gia đình nữa.
Hiện nay trong những ngày Tết đến, người ta còn sử dụng bánh chưng như một món quà biếu, lễ Tết những người lớn tuổi. Nó tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.
Mỗi dịp Tết đến xuân về, nồi bánh chưng nghi ngút khói chính là dấu hiệu cho sự ấm áp đoàn viên. Vì vậy, nó là món ăn truyền thống của người Việt mà không loại bánh nào có thể thay thế được. Đây chính là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam mà ta cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.
Ta vẫn thường được nghe kể về sự tích “Bánh chưng, bánh giầy” qua lời kể của bà, của mẹ: “Ngày xửa ngày xưa, vua Hùng muốn nhường lại ngôi vua của mình cho các con nên đã truyền rằng các hoàng tử hãy dâng lên vua những vật có ý nghĩa và lạ nhất thì sẽ truyền ngôi cho. Khi ấy Lang Liêu đã làm ra hai loại bánh trong đó có bánh chưng tượng trưng cho đất được vua khen ngợi rồi truyền ngôi báu cho. Từ đó bánh chưng được lưu truyền để dân ta dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.
Quan niệm dân gian về bánh chưng cũng từ đó mà ra, người ta vẫn thường nói bánh chưng tượng trưng cho Trời Đất, là thức quà được ban tặng. Cho tới ngày nay, nhân dân ta đã sử dụng bánh chưng vào ngày Tết giống như một món ăn truyền thống đặc trưng không thể thiếu. Vật liệu chính để làm bánh chưng bao gồm lá dong, gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn, lạt, đó đều là những vật liệu dễ tìm, thân thuộc với người dân.
Về phần gói bánh thì nhân dân ta thường gói bánh theo hai hình là hình vuông truyền thống và hình tròn dài. Theo cách gói bánh vuông truyền thống nếu muốn cho bánh đẹp vuông vắn thì ta cần lựa lá dong phải to và dài, trước khi gói lá cần được rửa sạch, để khô rồi cắt đầu đuôi. Thông thường khi làm bánh chưng vuông, ta cắt lá và gấp khúc trước rồi xếp hai lá lên nhau, sau đó đổ một lớp gạo nếp dày, tiếp là đổ một ít đỗ bên trên, rồi miếng thịt đã ướp gia vị và cuối cùng là một lớp đỗ và lớp gạo nếp dày lên trên cùng. Công đoạn gấp bánh cần phải đảm bảo các xếp lá chồng lên vuông vắn và ôm sát vào những nguyên liệu bên trong. Trước đó ta cần lấy tay ấn thật chặt cho gạo đỗ lấp đầy vào những chỗ hở để tạo thành một hình vuông vắn. Khi đã có một khối vuông vắn thì chúng ta phải lấy lạt buộc cố định lại rồi đem đi luộc.
Đối với bánh chưng tròn dài (địa phương gọi tắt là bánh dài) thì cũng tương tư nhưng cần đến lá dong dài hơn và buộc bánh theo hình dài chứ không nén chặt theo hình vuông. Thường nhân dân ta hay gói bánh chưng vào những ngày cuối năm như 29 hay 30 Tết để đón năm mới bên nhau, cả gia đình cùng trông nồi bánh chưng ấm cúng để chờ khoảnh khắc điểm giao giữa năm cũ và năm mới. Hình ảnh anh chị em quây quần, cũng kể cho nhau những gì đã trải qua trong năm cũ, nói ra những dự định mới cho năm tới. Đó chính là khoảnh khắc xua tan hết nhưng mệt mỏi, áp lực còn sót lại, ta chỉ tận hưởng khoảnh khắc hạnh phúc bên gia đình mà thôi.
Bánh chưng trong ngày Tết có những ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó là cách người Việt ta bày tỏ những tấm lòng nhớ về tổ tiên, về cội nguồn đã sáng tạo và để lại loại bánh có ý nghĩa này. Một món ăn thể hiện sự đầy đủ, trọn vẹn nhất cho bữa cơm đoàn viên. Và nó cũng là món ăn truyền thống không thể nào vắng mặt trong ngày tết của nhân dân ta.
Không những vậy, nhân dân ta sẽ chọn những chiếc bánh chưng đẹp nhất để dâng lên bàn thờ thờ cúng ông bà tổ tiên trong những ngày Tết.
Bánh chưng ăn nóng có lẽ là ngon nhất tuy nhiên thức quà này khi nguội rồi còn có thể cắt chúng ra từng miếng nhỏ đem rán lên ăn rất là ngon và thơm. Những người thích ăn nóng thì cũng có thể luộc lại như bình thường hoặc hấp nóng bánh.
Tóm lại, bánh chưng có ý nghĩa rất lớn trong đời sống cũng như tình cảm của nhân dân ta trong ngày tết truyền thống. Kể từ khi xuất hiện cho đến ngày nay, bánh chưng không chỉ khẳng định sự thơm ngon hấp dẫn mà còn xoay quanh những ý nghĩa sâu sắc của mình.
….
Bánh chưng là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Nguyên liệu làm bánh chưng được lấy từ thiên nhiên hết sức gần gũi và thân thuộc trong đời sống của người Việt. Cách làm bánh hết sức đơn giản nhưng chứa đựng triết lý sâu xa của người xưa.
Nguyên liệu làm bánh chưng gồm các thành phần cơ bản và nguyên liệu làm bánh chưng hết sức đơn giản và dễ tìm thấy trong đời sống:
Lá để gói: thường là lá cây dong tươi. Lá dong chọn lá dong rừng bánh tẻ, to bản, đều nhau, không bị rách, màu xanh mướt. Lá dong: rửa từng lá thật sạch hai mặt và lau thật khô. Trước khi gói nhúng nước sôi để dẻo. Lau thật khô trên lá, cắt cạnh nhỏ vừa gói bánh.
Lạt buộc: bánh chưng thường dùng lạt giang được làm từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm nước muối hay hấp cho mềm trước khi gói.
Gạo nếp: Gạo nếp thường dùng gạo thu hoạch vụ mùa. Gạo vụ này có hạt to, tròn, dẻo đều và mới thu hoạch sẽ thơm dẻo hơn các vụ khác. Nhiều người chọn nếp cái hoa vàng hay nếp nương. Gạo nếp nhặt loại bỏ hết những hạt gạo khác, những viên sạn sỏi lẫn vào, vo sạch, ngâm gạo ngập trong nước cùng 0,3% muối trong thời gian khoảng 10-12 giờ tùy loại gạo và tùy thời tiết, sau đó vớt ra để ráo. Có thể xóc với muối sau khi ngâm gạo thay vì ngâm nước muối.
Đỗ xanh: đỗ thường được lựa chọn công phu, tốt nhất là loại đỗ trồng ở vùng đồi trung du Việt Nam. Đỗ xanh giã nhuyễn, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho mềm và nở, đãi bỏ hết vỏ, vớt ra để ráo. Nhiều nơi dùng đỗ hạt đã được đãi vỏ trong khi những nơi khác cho vào chõ đồ chín, mang ra dùng đũa cả đánh thật tơi đều mịn và sau đó chia ra theo từng nắm, mỗi chiếc bánh chưng được gói với hai nắm đậu xanh nhỏ.
Thịt: thường là thịt lợn. Thịt ba chỉ (ba rọi) với sự kết hợp của mỡ và nạc cho nhân bánh vị béo đậm đà, không khô bã như các loại thịt mông, thịt nạc thăn. Thịt lợn đem rửa để ráo, cắt thịt thành từng miếng cỡ từ 2,5 đến 3cm sau đó ướp với hành tím xắt mỏng, muối tiêu hoặc bột ngọt để khoảng hai giờ cho thịt ngấm.
Gia vị các loại: hạt tiêu dùng để ướp thịt làm nhân. Muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt thịt ướp không nên dùng nước mắm vì bánh sẽ chóng bị ôi, thiu. Ngoài ra một số loại gia vị khác ít phổ biến hơn cũng được sử dụng như thảo quả, tinh dầu cà cuống thường sử dụng tẩm ướp trong nhân bánh tại Hà Nội xưa, tuy nay ít nơi còn cầu kỳ gia thêm loại gia vị này.
Phụ gia tạo màu: bánh chưng với màu xanh của nếp được tạo thành bằng cách quay mặt trên của lá dong, lá chuối (mặt có màu xanh thẫm) vào trong, áp với bề mặt của gạo nếp. Một số nơi còn sử dụng các phụ gia khác như lá dứa hay lá giềng xay nhuyễn vắt lấy nước trộn gạo vừa tạo hương thơm vừa tạo cho bánh có màu xanh ngọc.
Khâu chuẩn bị nguyên liệu, vật liệu cho bánh chưng đặc biệt quan trọng để bánh có thể bảo quản được lâu dài không ôi thiu hay bị mốc. Thịt ướp dùng nước mắm, vo nếp không sạch, đãi đậu không kỹ hay rửa lá còn bẩn, không lau khô lá trước khi gói đều có thể khiến thành phẩm chóng hỏng.
Bánh chưng được gói không khuôn tại một gia đình làm bánh chưng bán tết, chiếc lá trong cùng quay mặt xanh vào trong để tạo màu cho nếp, 2 lá quay mặt xanh ra ngoài với dụng ý hình thức. Thông thường có hai cách gói bánh chưng: gói bằng tay không hoặc gói theo khuôn hình vuông khoảng 20cm x 20cm x 7cm sẵn có. Khuôn thường làm bằng gỗ.
Cách gói tay không thông thường như sau:
Rải lạt xuống mâm tròn tạo hình chữ thập. Đặt 2 chiếc lá dong lên trên lạt, nằm chồng 1/2 theo chiều dài lá lên nhau, chú ý phải quay mặt trên của 2 lá ra phía ngoài và mặt kém xanh hơn (mặt dưới) vào trong. Lượt sau: 2 lá rải như lượt đầu nhưng vuông góc với lượt đầu, chú ý là lần này lại phải làm ngược lại, quay mặt trên lá (xanh hơn) lên trên, mặt kém xanh hơn, úp xuống dưới.
Gạo nếp, xúc 1 bát đầy đổ vào tâm của hình chữ thập, dùng tay gạt đều, tạo hình vuông mỗi cạnh 20 cm. Lấy 1 nắm đỗ xanh bóp nhẹ và rải đều vào giữa vuông gạo đến gần hết bìa gạo.
Thịt lợn, lấy 1, 2 miếng tùy cỡ đã thái rải đều vào giữa bánh.
Lấy tiếp 1 nắm đỗ xanh nữa bóp nhẹ rải đều phủ lên trên thịt. Xúc 1 bát gạo nếp đổ lên trên và phủ khỏa đều, che kín hết thịt và đỗ.
Gấp đồng thời 2 lá dong lớp trên vào, vừa gấp vừa vỗ nhẹ để tạo hình khối vuông. Tiếp tục gấp đồng thời 2 lá dong lớp dưới vào như lớp trên, vừa gấp vừa lèn chặt nhẹ tay.
Dùng lạt buộc xoắn lại tạo thành hình chữ thập. 2 bánh chưng buộc úp vào nhau thành một cặp
Cách gói bánh có khuôn thì bánh đều nhau hơn và chặt hơn do được vỗ đều gạo, nén chặt, còn gói không khuôn thì bánh được gói nhanh hơn do đỡ mất công đo cắt lá theo kích thước khuôn. Bánh được gói không khuôn thì mặt trên lá được quay ra ngoài, còn với bánh có khuôn thì mặt dưới lá lại được quay ra ngoài.
Lấy nồi to, dày với dung tích trên 100 lít tùy theo số lượng bánh đã được gói. Rải cuống lá dong thừa xuống dưới kín đáy nhằm mục đích tránh cho bánh bị cháy. Xếp lần lượt từng lớp bánh lên đến đầy xoong và xen kẽ các cuống lá thừa cho kín nồi. Đổ ngập nước nồi và đậy vung đun. Người luộc bánh thường canh giờ tính từ thời điểm nước sôi trong nồi và duy trì nước sôi liên tục trong 8 đến 12 giờ. Trong quá trình đun, thỉnh thoảng bổ sung thêm nước nóng để đảm bảo nước luôn ngập bánh (người thực hiện thường đặt sẵn ấm nước bên cạnh bếp đun bánh để tận dụng nhiệt lượng). Những chiếc bánh ở trên có thể được lật giở để giúp bánh chín đều hơn, tránh tình trạng bị lại gạo sau này. Trong lúc luộc từ 4 đến 5 tiếng, có thể lấy bánh ra, ngâm trong nước lạnh, thay một lượt nước mới khác, bánh sẽ rền, ngon hơn.
Sau khi luộc xong, vớt bánh ra rửa sạch lá trong nước lạnh cho hết nhựa, để ráo. Xếp bánh thành nhiều lớp, dùng vật nặng đè lên để ép bánh cho ra nước, chắc mịn (tục gọi là để cho rền bánh) và phẳng đều trong vài giờ. Hoàn tất công đoạn ép bánh, bánh được treo lên chỗ khô ráo trong nhà để bảo quản.
Bánh thường được treo ở nơi thoáng mát, không bụi bặm, ẩm thấp để tránh bị mốc và ôi thiu, tùy thời tiết có thể để được hàng tháng trời không hỏng. Nhiều vùng ngày xưa còn đưa bánh xuống ngâm dưới ao hoặc giếng nước để bảo quản, lá bánh với nhựa của gạo khi nấu là lớp màng ngăn nước lọt vào làm hỏng bánh. Cách ngâm nước bảo quản bánh chưng tương truyền gắn với sự tích vua Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà vào dịp tết nguyên đán năm Kỷ Dậu (1789), nhân dân bỏ bánh chưng xuống ao, ngừng ăn tết nhằm hoàn tất cuộc đại phá quân Thanh và ăn tết muộn sau đó. Tuy nhiên, hiện cũng ít nơi còn sử dụng phương thức bảo quản này.
Trên bàn thờ ngày tết không thể thiếu bánh chưng và bánh giầy được bày theo cặp. Nhiều người cầu kỳ còn bóc bỏ lớp lá bên ngoài của bánh và gói lại bằng lá tươi mới, sau đó buộc lạt màu đỏ trước khi đặt lên bàn thờ.
Bánh chưng vuông thường được cắt chéo bằng chính lạt gói bánh đó. Cách cắt bánh vuông như vậy giúp cho mỗi miếng bánh đều có nhân đều nhau. Ngoài ra cũng thường thấy cách cắt bánh chưng vuông theo phương ngang và khi đó các miếng bánh ở giữa sẽ nhiều nhân hơn. Bánh chưng dài thường cắt lát ngang, gọi là “đồng bánh”.
Bánh chưng thường được ăn cùng với dưa hành, nước mắm, xì dầu rắc chút bột tiêu. Ra sau tết, bánh có thể bị lại gạo, bị cứng, khi đó người ta thường đem rán vàng trong chảo mỡ và ăn kèm với dưa góp.
Theo quan niệm dân gian, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Bánh có màu xanh lá cây, hình vuông, được coi là đặc trưng cho đất trong tín ngưỡng của người Việt cổ và các dân tộc khác trong khu vực châu Á.
Gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân về. Khi sêu tết nhau tặng bánh chưng thì người Việt có lệ tặng một cặp bánh chứ không tặng một cái lẻ.
Chiếc bánh chưng trong ngày tết cổ truyền dân tộc gói ghém trong đó cả một nền văn minh nông nghiệp lúa nước thời bấy giờ. Bên ngoài của chiếc bánh chưng là lá dong gói có sẵn trong tự nhiên, bên trong được chế biến từ gạo nếp, đậu xanh, hành, thịt heo,… đều là những nguyên liệu nấu ăn truyền thống của dân tộc. Chính vì vậy bánh chưng xuất hiện vào ngày Tết để thể hiện sự biết ơn trời đất đã cho mưa thuận gió hòa, để mùa màng bội thu đem lại cuộc sống ấm no cho con người. Bánh chưng Tết cũng thể hiện được chữ hiếu của người con với cha mẹ, chính vì thế mà phong tục dùng bánh chưng làm quà biếu dâng lên cha mẹ cũng từ đây mà có.
Ẩm thực Việt Nam không chỉ đặc sắc trong hương vị, nguyên liệu mà còn chứa đựng tinh hoa của sự khéo léo cũng như văn hóa lối sống, tâm hồn người Việt. Dân gian có đôi câu đối: “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/ Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”. Nhắc đến tết cổ truyền, chắc hẳn mỗi người Việt Nam, dù đang ở trên chính mảnh đất quê cha hay đang ở nơi đất khách quê người cũng không thể quên được thức bánh dẻo thơm bùi của đỗ xanh, dẻo ngọt của gạo nếp, béo ngậy của thịt mỡ của bánh chưng – thức bánh hình vuông ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về văn hóa dân tộc.
Sự ra đời của bánh chưng gắn liền với truyền thuyết “Bánh chưng, bánh giầy” cùng sự kiện vua Hùng Vương đời thứ sáu chọn người nối ngôi. Giữa muôn vàn sơn hào hải vị, cặp bánh chưng bánh giầy đã đem đến chiến thắng cho hoàng tử Lang Liêu. Nếu bánh giầy thon dài với hình tròn tượng trưng cho trời thì bánh chưng lại là ý niệm ẩn dụ của mặt đất với hình dáng vuông vức.
Advertisement
Là một món ăn thể hiện rõ đặc trưng của nền ẩm thực Việt Nam, nguyên liệu làm ra bánh chưng cũng hết sức dân dã. Vỏ ngoài của bánh được tạo nên từ những chiếc lá dong xanh tươi, lành lặn và gân chắc cùng những sợi dây lạt giang trắng phau, mảnh nhỏ và mềm mại. Còn bên trong bánh là những nguyên liệu quen thuộc như thịt ba chỉ, đỗ xanh, hành cùng một số gia vị đơn giản khác như muối trắng, hạt tiêu,…
Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ những nguyên liệu trên, bàn tay khéo léo của con người sẽ sơ chế nguyên liệu và lần lượt thực hiện các công đoạn gói bánh, nấu bánh. Lá dong có nhiệm vụ bao bọc và ảnh hưởng đến màu sắc của chiếc bánh chưng nên cần được chọn lọc với sắc xanh mướt, sau đó rửa sạch sẽ những bụi bặm và vết bẩn, dùng khăn lau khô hoặc để ráo nước. Gạo nếp là thành phần quan trọng nhất của chiếc bánh nên cần đảm bảo những yêu cầu như hạt to, đều hạt, tròn và thơm dẻo. Trước khi gói bánh, những hạt gạo này sẽ được ngâm cùng nước trong khoảng thời gian nhất định, thường kéo dài từ 12 tiếng đến 14 tiếng. Đỗ xanh sau khi được xay hoặc giã vỡ đôi, người làm bánh sẽ ngâm trong nước ấm với nhiệt độ thường ở mức 40 độ C để hạt đỗ trở nên mềm hơn và sau đó đãi sạch vỏ đỗ, chỉ giữ lại sắc tươi vàng ươm. Về nhân thịt của bánh chưng, loại thịt thường được sử dụng là thịt ba chỉ vừa nạc vừa mỡ cắt thành từng miếng, ướp cùng những gia vị như hành khô, hạt tiêu để gợi dậy mùi thơm và hương vị.
Để tạo ra một chiếc bán với hình thù vuông vức, gói bánh là công đoạn hết sức quan trọng. Sau khi trải lá dong, người gói có thể sử dụng khuôn để tạo nên bốn góc vuông cân xứng, hài hòa. Và lần lượt các nguyên liệu khác được sắp xếp theo thứ tự: gạo nếp ở ngoài, đỗ xanh, thịt lợn ở bên trong, và đổ thêm gạo nếp để lấp đầy chiếc bánh. Quá trình này đòi hỏi người gói bánh cần tỉ mỉ và khéo léo. Sau đó, những chiếc bánh tươi tắn, vuông vức được xếp vào nồi, đổ nước vào luộc trong vòng 10 – 12 tiếng để bánh chín đều và dẻo thơm. Trong lúc luộc bánh, những thành viên trong gia đình thường quây quần bên bếp lửa để kể cho nhau nghe những câu chuyện về năm cũ.
Vào mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng luôn là yếu tố không thể thiếu và mang trong mình những ý niệm về sự tưởng nhớ công ơn và lòng thành kính đối với những người đã khuất. Đồng thời, chiếc bánh vuông vắn tượng trưng cho mặt đất thể hiện mong ước về một cuộc sống trọn vẹn và ấm no. Hơn hết, nó còn là biểu tượng cho thành tựu văn minh nông nghiệp của dân tộc ta.
Bánh chưng vuông tượng trưng cho mặt đất, xanh màu lá dong có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tâm thức con người Việt Nam. Bánh chưng, hơn cả một món ăn – đó còn là bản sắc dân tộc, là nét đẹp ẩm thực truyền thống ngàn đời nay còn lưu giữ.
…..
Bánh chưng là một sản vật xuất hiện từ rất xa xưa, từ thời đại Vua Hùng cho đến nay. Có thể nói, bánh chưng là trong những sản vật mang đậm tính truyền thống, vừa có sức trường tồn cùng với thời gian, theo những tháng năm lịch sử của dân tộc vừa rất gần gũi với đời sống thường nhật trong lĩnh vực văn hóa ẩm thực và tâm linh của người Việt Nam. Tuy nhiên, trong xã hội ngày càng hiện đại, đã có nhiều truyền thống đang bị mai một, bên cạnh đó cũng còn một số giá trị truyền thống vẫn được người Việt lưu giữ cho đến tận bây giờ đó là phong tục gói bánh chưng vào những dịp Tết đến xuân về.
Theo truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dày”, Vào đời Hùng Vương thứ 6, nhân dịp giỗ tổ vua Hùng và nhà vua muốn truyền ngôi cho con nên đã triệu tập các quan Lang (các con của nhà vua) đến và truyền rằng: “vị quan Lang nào tìm được món lễ vật dâng lên tổ tiên hợp ý với nhà vua sẽ được nhà vua nhường ngôi“. Các vị quan Lang cùng đua nhau lên rừng, xuống biển tìm kiếm những món ngon vật lạ và các sản vật quý để làm lễ vật dâng lên nhà vua với hy vọng được nhà vua nhường ngôi cho. Trong đó có người con trai thứ mười tám của vua Hùng tên là Lang Liêu, là người nghèo khó nhất trong số các người con của vua. Với tính tình hiền lành, chí hiếu, mẹ lại mất sớm, nên không thể tìm những sản vật quý hiếm về dâng vua cha. Chàng lo lắng không biết phải làm sao thì bổng nằm mơ thấy ông Tiên bảo:”Vật trong trời đất không có gì quý bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”. Lang Liêu tỉnh dậy mừng rỡ và làm theo lời Tiên ông đã dặn, chàng đã dùng những nông sản thường ngày gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong để tạo ra hai loại bánh Chưng và bánh dày tượng trưng cho trời và đất làm lễ vật dâng vua. Đến ngày hẹn, các vị quan Lang đều đem cỗ tới nào là sơn hào hải vị,…Riêng lễ vật của Lang Liêu chỉ có bánh chưng bánh dày. Vua cha lấy làm lạ nên hỏi, Lang Lêu bèn đem “Thần mộng” tâu lên. Vua nếm bánh thấy ngon, lại khen có ý nghĩa, rất hợp ý vua Hùng, và vua đã truyền ngôi cho Lang Liêu, tức là đời vua Hùng Vương thứ 7.
Từ đó bánh Chưng, bánh dày đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức thờ cúng tổ tiên, để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn đối với cha ông. Bánh Chưng có hình vuông, màu xanh tượng trưng cho Đất, đây cũng là món ăn, là nét đẹp truyền thống không thể thiếu vào mỗi dịp tết đến xuân về, mọi người cùng nhau quây quần bên nồi bánh chưng nghi ngút khói.
Những chiếc bánh chưng xanh hình vuông rất độc đáo, sáng tạo mang đậm bản sắc dân tộc còn nhờ vào nguyên liệu, cách gói và cách nấu. Nguyên liệu chính là lúa gạo, đây thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước nhiệt đới, với khí hậu nhiệt đới, quanh năm nóng ẩm, nên những chiếc bánh hình vuông có màu xanh được chế biến với nhiều hình thức khác nhau nhưng vẫn mang tính truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc. Phần nhân của bánh được làm từ thịt lợn mềm thơm được ướp gia vị đậm đà, nhân đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Và công đoạn gói bánh chưng cũng rất cầu kỳ, lá gói bánh phải là lá dong và cách gói phải thật kín, thật đẹp sao cho nước không thể vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chặt, chắc, không gói lỏng tay, cũng không chắc quá, bánh cũng không ngon.
Điều độc đáo hơn nữa là khoảng thời gian nấu bánh, không giống như những loại bánh khác, thời gian nấu bánh kéo dài khoảng 10 tiếng đồng hồ. Đây là lúc mọi người sum họp cùng nhau quây quần ngồi trông nồi bánh bên bếp lửa hồng trong không khí lạnh của những đêm giáp tết, những em nhỏ hay nghịch thường hay lấy những củ khoai vùi sâu vào trong bếp than hồng rực cũng là những kỷ niệm không thể quên được trong lòng mọi người.
Vào những ngày sau Tết, bánh Chưng còn lại được đem đi rán cũng rất ngon và trở thành món ăn ưa thích của nhiều người, đặc biệt là những em nhỏ. Khi ăn có cảm giác “trong dai, ngoài giòn” hòa quyện cùng mùi thơm đặc trưng của bánh chưng rán là một cảm giác rất dễ “gây nghiện” với nhiều người. Và họ tìm đến bánh Chưng rán ngon vào mỗi buổi sáng như một món ăn quen thuộc chứ không riêng gì dịp Tết.
Ngày tết, ăn một miếng bánh chưng sau khi cúng lễ tổ tiên, ông bà, dư vị thời gian, không gian của lịch sử như cùng quy tụ trong màu xanh của bánh, mùi thơm thảo của hạt nếp tiền nhân để cùng suy ngẫm về ý nghĩa triết học và giá trị nhân văn của các truyền thuyết, các sự tích về bánh chưng của người Việt. Đó cũng là một cách di dưỡng tinh thần, làm giàu thêm bản sắc văn hoá tâm linh và văn hoá ẩm thực Việt Nam.
Bánh chưng là món bánh Tết đặc trưng người dân các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Riêng với các tỉnh miền Nam, thì món bánh phổ biến trong những ngày Tết là bánh Tét, một loại bánh hình trụ tròn, được gói bằng lá chuối, với nguyên liệu là gạo nếp, thịt lợn và nhân bánh làm từ đỗ xanh, đỗ đen hay chuối. Hương vị của bánh Tét cũng không khác nhiều so với bánh Chưng. Theo lời ông bà xưa tương truyền rằng, do sự đối đầu giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn vào cuối thời nhà Lê, nên chúa Nguyễn đã cho nhân dân “đàng Trong” làm bánh Tét để tạo ra sự khác biệt với bánh chưng của “đàng Ngoài”.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội, thì bánh chưng cũng ngày càng trở nên phong phú đa dạng về kích cỡ, hương vị cũng như những biến tấu phần nhân thêm mới lạ. Từ nông thôn cho đến thành thị, ở các khu chợ đi đâu bạn cũng có thể lựa chọn cho mình những chiếc bánh chưng với các kích cỡ, to nhỏ khác nhau, phần nhân cũng vì thế mà đa dạng với vị mặn hay ngọt, đều này cũng làm giàu thêm bản sắc văn hoá tâm linh và ẩm thực của người Việt Nam.
….
Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Một Làng Nghề Truyền Thống Dàn Ý &Amp; 8 Bài Thuyết Minh Lớp 9 Hay Nhất
Với 8 bài thuyết minh làng lụa Vạn Phúc, làng gốm của người Chăm, làng nghề nón lá, làng tranh Đông Hồ, làng làm hoa giấy Thanh Tiên, làng tơ Cổ Chất… các em sẽ nhanh chóng hoàn thiện bài văn thuyết minh của mình, để đạt kết quả cao trong các bài kiểm tra sắp tới. Mời các em cùng theo dõi:
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về làng nghề truyền thống của quê hương.
2. Thân bài
– Nêu cụ thể hơn địa chỉ của làng nghề: nằm ở đâu, cách đi đến và nhận dạng như thế nào?
– Nêu nguồn gốc, lịch sử hình thành của làng nghề truyền thống ấy:
Làng được hình thành, ra đời từ khi nào?
Lịch sử của làng gắn với sự kiện, nhân vật quan trọng nào?
Thời gian tồn tại và phát triển dài bao lâu?
– Chi tiết về làng nghề truyền thống ấy:
Trong làng có bao nhiêu gia đình theo nghề?
Khung cảnh làng như thế nào?
Sản phẩm truyền thống của làng nghề. Hiện nay, người dân trong làng vẫn duy trì phương pháp thủ công hay hiện đại. Nêu nét thay đổi, tiến bộ trong hoạt động làm nghề của con người nơi đây.
Quá trình những người nghệ nhân làm nghề có gì đặc biệt, gây ấn tượng với em.
Sản phẩm tạo ra có hình dáng, màu sắc như thế nào? Thể hiện nét đặc trưng chỉ thuộc về làng nghề này…
– Những sự vật, khung cảnh khác xung quanh làng nghề.
– Nêu vị trí, giá trị của làng nghề truyền thống ấy trên đất nước, với người dân nơi đây.
3. Kết bài
Khẳng định lại lịch sử lâu đời của làng nghề.
Tình cảm của bản thân với làng nghề đó.
Hà Nội – thủ đô ngàn năm văn hiến, chốn phồn hoa đô thị và phát triển bậc nhất nước ta vẫn có nơi gìn giữ được nét tinh hoa văn hóa từ lâu đời đó chính là làng nghề truyền thống lụa Vạn Phúc hay còn gọi với cái tên gần gũi là Làng lụa Vạn Phúc. Có thể nói làng lụa Vạn Phúc chính là cái nôi của gấm lụa Việt Nam, các sản phẩm lụa của Vạn Phúc được đánh giá là đẹp nhất xứ Đông Dương.
Đặt chân đến đất Hà Thành đi về hướng Tây Nam Hà Nội là khu vực Hà Đông, làng lụa Vạn Phúc thuộc địa phận phường Vạn Phúc của quận Hà Đông, năm bên bờ sông Nhuệ cách trung tâm thủ đô hơn 10km. Hiện nay có rất nhiều tuyến đường dễ đi và nhanh chóng từ trung tâm đến với làng lụa Vạn Phúc. Mọi người có thể đi bằng phương tiện cá nhân, đi taxi, xe buýt hoặc xe buýt nhanh BRT chạy theo tuyến đường Nguyễn Trãi – Lê Văn Lương – Tố Hữu là tới phường Vạn Phúc. Đối với người dân Hà Đông nói chung và phường Vạn Phúc nói riêng, làng lụa Vạn Phúc đã trở thành biểu tượng, là trái tim và linh hồn nơi đây.
Sự khác biệt lớn nhất khiến mọi người nhận ra một làng nghề truyền thống giữa lòng thủ đô chính là cổng làng theo kiến trúc cổ. Cổng làng được xây bằng gạch đỏ kiến trúc tam quan, có gác và mái che, cổng lớn giúp cho các loại phương tiện ô tô dễ dàng qua lại. Về thăm làng lụa Vạn Phúc mọi người sẽ được quay ngược thời gian trở về với thời xa xưa cũ kĩ, những nét cổ kính thôn quê giữa chốn phồn hoa đô thị, đó là cổng làng, bia đá sừng sững, mái ngói đỏ rêu phong, cây đa cổ thụ bóng cả, giếng nước, sân đình. Chính cái nét truyền thống trong quá trình làm lụa Vạn Phúc đã mang cả một ngôi làng giữ lại những gì truyền thống và cổ kính nhất cho đến tận ngày nay.
Làng lụa Vạn Phúc tính đến nay đã gần 1100 năm tuổi, lịch sử của làng lụa này có từ thời bà A Lã Thị Nương vợ của thái thú Giao Chỉ Cao Biền dạy và truyền nghề nuôi tằm kéo tơ dệt lụa cho nhân dân. Ban đầu các sản phẩm lụa của làng có tên là Vạn Bảo, sau này do kỵ húy nhà Nguyễn đổi tên thành Vạn Phúc. Từ những năm 1930 khi nước ta còn chia hai miền Bắc Kỳ và Nam Kỳ, nhân dân Bắc Kỳ đã vô cùng tự hào khi lụa Vạn Phúc lần đầu giới thiệu ra thế giới năm 1931 tại hội chợ quốc tế Marseille, từ sau đó lụa Vạn Phúc trở thành mặt hàng xuất khẩu sang Đông u và nhiều nơi khác trên thế giới. Cho đến nay lụa Vạn Phúc ngày càng phát triển song vẫn gìn giữ được tinh hoa cổ truyền trong từng tấm lụa. Trong bối cảnh cạnh tranh với các sản phẩm lụa khác trên thế giới lụa Vạn Phúc vẫn vươn lên trong khó khăn, khẳng định giá trị truyền thống, chất lượng, ngày càng có vị thế trên trường quốc tế mặc cho các đối thủ khác luôn tìm cách làm nhái, làm giả thương hiệu.
Lụa Vạn Phúc có những nét riêng không thể tìm thấy được ở các sản phẩm lụa nơi khác, điều đó có được từ chính đôi bàn tay của người nghệ nhân, họ là người giữ bí kíp gia truyền, đem cả tâm và thân của mình vào trong sản phẩm. Họ đã phải mất rất nhiều tâm huyết và công sức để tạo ra được một tấm lụa cực phẩm. Một tấm lụa Vạn Phúc ra đời phải trải qua nhiều công đoạn, thời gian, ở mỗi công đoạn đều cần sự cẩn thận, tỉ mỉ và khéo léo, điêu luyện. Từ quá trình trồng dâu nuôi tằm, ủ tằm kéo kén, guồng tơ mắc cửi, dệt tơ nhuộm tơ… mặc dù hiện nay đã có nhiều máy móc hiện đại tiên tiến hỗ trợ nhưng vẫn không thể thay thế con người, máy móc chỉ là phụ trợ không đáng kể, chủ yếu vẫn là thủ công. Từng sợi tơ dệt nên dải lụa mềm chính là kết tinh của trời đất, thấm đượm công sức lao động, tình yêu và sự tài hoa của người nghệ nhân làng lụa.
Làng lụa Vạn Phúc không chỉ là một làng nghề truyền thống đơn giản mang lại giá trị hàng hóa mà đã vượt qua ý nghĩa đó, trở thành biểu tượng của truyền thống văn hóa dân tộc. Làng lụa Vạn Phúc đi vào thơ ca, bài hát, vào cuộc sống lao động sinh hoạt, giống như những câu hát trong bài “Áo lụa Hà Đông” luôn ngân vang, tha thiết trở thành dòng chảy bất tận trong mỗi người con Hà Đông.
Đồng bào dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chămpa. Người Chăm ở tỉnh Bình Thuận có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Họ cũng rất giỏi trong việc dệt thủ công và buôn bán nhỏ. Làng nghề làm gốm của người Chăm ở tỉnh Bình Thuận là một trong những làng nghề cổ xưa, còn lưu giữ cho đến ngày nay.
Hiện nay, tại tỉnh Bình Thuận có 26 thôn của người Chăm, nhưng chỉ có người Chăm ở thôn Bình Đức, xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình còn làm gốm với kỹ thuật và quy trình thủ công truyền thống của cha ông họ. Theo các nghệ nhân cho biết, nghề gốm ở thôn Bình Đức có từ rất lâu, được các gia đình người Chăm nơi đây duy trì qua nhiều đời.
Quy trình làm gốm truyền thống của người Chăm thôn Bình Đức, xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình bao gồm nhiều khâu công việc, nhiều công đoạn kết nối với nhau.
Đầu tiên là việc chọn đất và lấy đất. Theo kinh nghiệm dân gian của các nghệ nhân cao tuổi, loại đất sét được sử dụng làm gốm phải có màu vàng nhạt, có độ dẻo và độ mịn vừa phải, không bị lẫn nhiều hạt sạn, sỏi nhỏ. Thời điểm lấy đất thường diễn ra vào mùa nông nhàn, trong mùa khô, khoảng tháng Một đến tháng Hai Âm lịch hàng năm. Công cụ dùng để đào bới và lấy đất gồm có: cuốc, xẻng, cúp (cuốc chim), xà beng và thúng. Trước đây, phương tiện chở đất bằng xe trâu (thă’ kupaw), ngày nay bằng xe cơ giới.
Có đất, người làm gốm phải đập, ủ, pha trộn và nhồi bóp đất. Việc xử lý đất trước khi làm gốm quyết định đến chất lượng và hiệu suất sản phẩm sau khi nung. Để có đất thành phẩm nhào nặn các sản phẩm gốm vào sáng ngày hôm sau, ngày hôm trước đất được đập và pha trộn, tùy theo nhu cầu sử dụng nhiều hay ít mà người thợ lấy một lượng đất vừa đủ, ít khi để dư lại qua ngày hôm sau.
Thợ làm gốm là những phụ nữ Chăm, họ tạo hình sản phẩm gốm không dùng bàn xoay, chỉ sử dụng những công cụ giản đơn theo phương pháp thủ công truyền thống. Dụng cụ tạo hình sản phẩm gốm khá đơn giản: một chiếc bàn kê (kathun hay lithung giơ yơng) và một miếng vải thô nhỏ. Đối với sản phẩm gốm có kích thước lớn và cồng kềnh, phải thao tác trên mặt sân bằng phẳng và phải do những nghệ nhân lớn tuổi, nhiều kinh nghiệm mới thực hiện được. Người thợ lấy một ít cát trắng rải đều lên mặt bàn kê rồi đặt đất sét lên để chống dính. Bằng thao tác hơi khum người xuống, hai chân dịch chuyển quanh bàn kê, người thợ dùng đôi bàn tay tạo dáng và thân sản phẩm.
Tùy từng loại hình và kích cỡ sản phẩm mà người thợ lấy thêm những lọn đất để nối vuốt cho phần thân sản phẩm cao dần lên, tay trái áp bên trong, tay phải vuốt mặt bên ngoài sản phẩm, người thợ dịch chuyển quanh bàn kê ngược chiều kim đồng hồ khoảng 5 vòng, sau đó dịch chuyển theo chiều ngược lại, là có thể tạo ra một dáng gốm cơ bản. Số vòng dịch chuyển tùy thuộc vào loại hình sản phẩm.
Tiếp theo, người thợ dùng một chiếc vòng tre vót mỏng vuốt lên mặt ngoài sản phẩm ướt để tạo độ đều và láng mịn, rồi dùng một miếng vải thô nhúng nước và dịch chuyển một vòng làm thao tác bẻ, vuốt miệng gốm cho đều, mịn. Mặt trong và ngoài miệng sản phẩm được vuốt nước thổ hoàng bằng miếng vải. Khi xương gốm ráo, người thợ tiếp tục nông thân và đáy (sửa cho đáy sản phẩm tròn, có độ dày đều), chà, nạo và làm bóng mặt trong và ngoài sản phẩm.
Sản phẩm gốm ướt được để khô tự nhiên ở nơi có bóng mát, ngoại trừ sản phẩm là các loại hỏa lò có thể phơi hoặc để ở nơi có nắng và gió to. Độ ráo của sản phẩm có ảnh hưởng quan trọng đến khâu chỉnh hình sau. Với các công cụ đặc thù, người thợ sẽ tiến hành nạo mặt trong thân và đáy sản phẩm, đồng thời nông sản phẩm từ đáy bằng thành đáy tròn; hoặc nông đáy và nạo bớt những chỗ dày mặt trong thân và đáy sản phẩm có kích cỡ nhỏ. Tiếp đó, người thợ dùng chiếc vòng (khoh) làm bằng cây duối để chà láng mặt trong thân và đáy, đồng thời, dùng bàn vỗ (khai poh) vỗ đều tay vào mặt trong thân và đáy để tạo sự tròn đều, cân đối. Sau đó, người thợ chà bóng và làm mịn mặt ngoài của sản phẩm bằng chiếc vòng sắt (nuh pathei pan).
Để kiểm tra độ đều và cân đối của sản phẩm, người thợ dùng vỏ nghêu để nạo mặt trong thân và đáy một lần nữa và xoa nước thổ hoàng lên toàn bộ mặt ngoài và mặt trong thân gốm tạo màu đỏ hồng và tươi tắn sau khi nung. Sản phẩm để trong bóng mát, dùng tấm nilon phủ kín để sản phẩm không bị khô. Trước khi nung, người thợ dùng viên đá mài chà lên thân sản phẩm để làm nhẵn lớp nước thổ hoàng bên trên thân gốm.
Chính bởi được làm hoàn toàn theo phương pháp thủ công như vậy nên những sản phẩm gốm Chăm không chiếc nào giống chiếc nào. Mỗi sản phẩm đều thể hiện phong cách, tay nghề, sự khéo léo và cả tình cảm, tâm trạng của người thợ trong quá trình chế tác sản phẩm.”
Gốm của người Chăm được nung lộ thiên. Thông thường, một lần nung tối thiểu phải có từ vài trăm sản phẩm trở lên và tối đa là từ 1500 đến 2000 sản phẩm. Việc nung gốm diễn ra quanh năm và nhiều nhà cùng nung chung một lần. Thời gian để nung chín toàn bộ sản phẩm gốm nhanh hay chậm tùy thuộc vào số lượng gốm nhiều hay ít.
Gốm được xếp theo thứ tự từ nhỏ đến lớn, từ dày đến mỏng. Nhiên liệu chính sử dụng để nung gốm từ trước tới nay là củi và rơm, củi làm chất đốt chính, rơm thấm nước để phủ kín lớp gốm trên cùng nhằm giữ nhiệt không cho hơi nóng thoát ra ngoài để gốm chín đều và nhanh hơn.
Sản phẩm gốm của người Chăm Bình Thuận khá đa dạng và phong phú, có thể chia làm hai nhóm: đồ đun nấu: trã (glah), nồi (gok glah), ấm (gok om), khương (glah đôi), dụ (buk), gàn (gin nhjih), hỏa lò (hawalo), khuôn lò bánh xèo (khung pey xèo), khuôn lò bánh căn (khung pey kăn)…; đồ đựng: lu đựng gạo (khơng brah), chum lớn (buk praung), chum nhỏ (buk ssit), chậu (khan), ống nhổ của các chức sắc (ta chôrh lănk)…
Sản phẩm gốm của người Chăm tỉnh Bình Thuận giá thành rẻ, gồm nhiều kích cỡ và chủng loại khác nhau, tiện lợi trong sử dụng, được cộng đồng người Chăm, người Việt, người Hoa, người Raglai, người Cờ ho… trên địa bàn ưa chuộng. Sản phẩm còn được tiêu thụ ở các tỉnh lân cận như Ninh Thuận, Khánh Hòa, Đồng Nai, Lâm Đồng, Tp. Hồ Chí Minh…
Người Chăm tạo ra các sản phẩm gốm trước hết để phục vụ cho đời sống sinh hoạt hằng ngày. Bởi thế, các sản phẩm của làng nghề nhiều nhất vẫn là các vật dụng thường sử dụng nhất. Tiếp đến, họ tạo ra các sản phẩm mang tính mỹ thuật và tôn giáo để trang trí các không gian, làm đẹp cuộc sống của mình. Những phẩm vật ấy từng bước trở thành hàng hóa, được mua bán khắp mọi nơi.
Trải qua thời gian, nhiều làng gốm cổ trên thế giới đã mất thế nhưng gốm Chăm Việt Nam vẫn còn tồn tại, giữ được hồn tinh túy và giữ được vẻ đẹp hoang sơ của gốm cổ cách đây hàng trăm năm. Đó là giá trị độc đáo và trường tồn của gốm Chăm, xứng đáng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Hy vọng một lần nữa gốm Chăm lại hồi sinh và tiếp tục lan tỏa.”
Toàn bộ quy trình làm gốm của đồng bào Chăm toát lên một giá trị nghệ thuật đặc trưng. Chính nhờ vậy, dù trải qua bao thăng trầm trong tiến trình phát triển, nhưng gốm truyền thống của người Chăm vẫn tồn tại với thời gian, giữ được hồn tinh túy và giữ được vẻ đẹp hoang sơ của gốm cổ cách đây hàng trăm năm. Đó là giá trị độc đáo và trường tồn của gốm Chăm.
Chiếc nón lá – hình ảnh thân thuộc, duyên dáng của người phụ nữ Việt Nam không biết tự bao giờ đã âm thầm lặng lẽ đi vào thơ ca, được nhiều bạn đọc yêu thích. Nón lá từ lâu không chỉ là vật dụng chỉ để che mưa, che nắng, mà nó còn là biểu tượng truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Để có được những chiếc nón ấy, người thợ thủ công đã bỏ ra không ít công sức. Những làng nghề làm nón lá xuất hiện, được nhiều người ưa chuộng, yêu thích. Huế là nơi nổi tiếng hơn cả.
Nghề làm nón ở Huế đã tồn tại và phát triển hàng trăm năm qua với nhiều làng nghề thủ công: Dạ Lê, Phú Cam, Đốc Sơ, Triều Tây,….Mỗi năm sản xuất hàng triệu chiếc nón đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Những bàn tay nghệ nhân khéo léo đan từng chiếc nón, trải qua nhiều công đoạn khác nhau để hoàn thành sản phẩm.
Các công đoạn gồm: chọn khung, uốn vành, lợp lá,cắt hoa văn, chằm và đánh bóng bảo quản, cuối cùng đưa ra thị trường. Vì gồm nhiều công đoạn như thế, nghề làm nón cũng chia ra làm nhiều thợ, mỗi người một việc: Thợ làm khung, thợ chuốt vành, thợ chằm nón,…
Để định hình chiếc nón,người nghệ nhân bắt đầu làm khung. Công đoạn đầu tiên là chuốt vành, công đoạn này yêu cầu người thợ phải khéo léo, chuốt sao cho các vành đều nhau, vừa vặn, không quá to hay quá nhỏ làm mất vẻ đẹp của nón. Vành nón được làm bằng gỗ nhẹ, mảnh, các vành ghép lại tạo cho chiếc nón lá có độ khum, độ tròn và có hình dáng nhất định. Mỗi chiếc nón thường có từ 15-16 vành, đường kính khoảng 50cm, làm từ gỗ cây lồ ô, câu mung có nhiều ở Thừa Thiên – Huế. Vành nón có tuổi thọ khoảng vài chục năm tùy thuộc vào người sử dụng. Có thể xem đây là công đoạn quan trọng nhất, quyết định rõ hình dạng chiếc nón lá, 16 vành nón còn được người dân nơi đây đặt cho cái tên ấn tượng nhưng dễ nhớ: “16 vành trăng”.
Tiếp theo là công đoạn lợp lá – một công đoạn quan trọng không kém. Lá dùng để lợp nón là loại lá nón bình thường, nhưng chúng phải trải qua các giai đoạn chọn lọc tỉ mỉ và trải qua nhiều khâu: hấp, sấy, phơi sương, ủi phẳng. Người nghệ nhân phải cân nhắc, cẩn thận sao cho lá nón giữ được màu trắng xanh mới đạt tiêu chuẩn. Những chiếc lá nón được xếp đều lên vành, không bị chồng chéo nhau, tạo nên hình ảnh chiếc nón thanh mảnh, đầy nữ tính. Những người nghệ nhân sẽ đính những chiếc lá này cố định lên vành nón bằng một loại “chỉ” đặc biệt, cốt làm cho chiếc nón đẹp hơn, bền chắc hơn. Bình thường,mỗi vành nón xếp khoảng 24-25 chiếc lá đều nhau. Đến đây, chiếc nón lá đã phần nào được định hình, các bộ phận đều khá đầy đủ.
Sau công đoạn lợp lá là công đoạn đặt hoa văn. Biểu tượng giữ hai lớp nón lá thường là hình ảnh cầu Trường Tiền, núi Ngự Bình, cầu Ngói,…. được đặt hài hòa trong không gian nón, để khi soi dưới ánh nắng mặt trời, ta có thể nhìn thấy những hình ảnh tuyệt đẹp ấy. Chưa hết, những bài thơ nổi tiếng viết về Huế cũng được in cạnh bên, những bài thơ này thường được làm từ giấy bòng bảy màu, in nổi bật trên nền xanh trắng của lá nón. Nón lá với hoa văn đẹp mắt, tinh tế đã cuốn hút không biết bao nhiêu người dân hướng về quê hương Huế mộng mơ đầy yêu thương.
Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn quan trọng nhất: chằm nón. Công đoạn đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo của người nghệ nhân, chính vì lí do này mà thợ chằm nón đa số đều là nữ. Từng đường kim mũi cước mềm mại uốn cong theo vành nón, nhanh thoăn thoắt mà đều tăm tắp, đẹp biết bao nhiêu. Những đường cước mỏng viền quanh vành nón không làm mất đi vẻ đẹp vốn có mà nó còn tô điểm thêm cho nón lá, đồng thời, cũng giúp làm tăng độ bền cho nón. Nón lá sau khi hoàn tất sẽ được quét lên một lớp nhựa thông pha cồn để tăng độ bóng, không thấm nước. Cuối cùng, những sản phẩm đặc biệt này sẽ có mặt trên thị trường, ở các chợ, các cửa hàng lưu niệm.
Ở Huế đâu đâu cũng có các hàng nón lá: chợ Đông Ba, Bến Ngự,…đến chợ Sịa, Phò Trạch,…. Với vẻ ngoài hấp dẫn, chiếc nón đã trở thành một món hàng được nhiều người dân ưa chuộng, nhiều khách du lịch yêu thích. Ai đã từng đến Huế, đều tự mua cho mình chiếc nón bài thơ – một dấu ấn mang đậm nét riêng của người dân nơi đây. Hình ảnh chiếc nón lá được quảng bá khắp thị trường, các cô, các chị, ai cũng chuộng món hàng này, vừa đơn giản, vừa đậm đà bản sắc dân tộc.
Cầm chiếc nón lá trên tay, ta không chỉ yêu từng đường kim mũi chỉ, từng đường nét hoa văn, mà còn yêu thêm xứ Huế tình nghĩa đầy mộng mơ, yêu thêm những vẫn thơ mộc mạc đậm chất trữ tình:
Nón bài thơ không chỉ là loại nón đơn thuần mà thực sự đã trở thành thương hiệu đặc sắc của dân tộc. Đây là sản phẩm thủ công mĩ nghệ đầu tiên được Cục sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học Công nghệ) cấp chứng nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lí 8/2010.
Nón lá, đặc biệt là nón bài thơ đã đi sâu vào lòng người qua các bài thơ mộc mạc, yêu thương, trở thành một nét riêng của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là nhân dân xứ Huế. Dẫu cho hiện tại, bóng dáng chiếc nón lá không còn rợp bóng các con phố như ngày xưa, nhưng hình ảnh của nó vẫn tồn tại mãi mãi trong lòng người dân. Yêu thêm chiếc nón lá, yêu thêm con người Huế, yêu thêm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam….. Và một điều chắc chắn rằng, dù thời gian có trôi đi vô tận, hình ảnh chiếc nón lá cùng chiếc áo dài truyền thống mãi tồn tại sâu sắc trong tâm khảm người dân. Chiếc nón lá mãi là biểu tượng của một dân tộc đầy yêu thương và sâu sắc…..
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát có nghề làm tranh
Đó là những câu ca gợi cảm về một làng nghề truyền thống từ lâu đã được người biết đến – Làng tranh Đông Hồ.
Đông Hồ, một cái tên làng quen thuộc xinh xắn nằm bên bờ sông Đuống thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bắc cũ (nay là tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội chừng trên 35km). Từ lâu tên làng đi vào cuộc sống tinh thần của mỗi dân Việt Nam bằng những bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà sắc thái dân tộc. Làng tranh Đông Hồ xưa còn gọi là làng Mái (đôi khi dân địa phương gọi là làng Hồ), là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian. Làng Đông Hồ nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ gần nhất là xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phong đến ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15km thì rẽ trái, đi chừng 18km các địa danh khá nổi tiếng của huyện Gia Lâm (Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành – Bắc Ninh) là đến phố Hồ – huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2km là đến làng Hồ. Cũng có thể đi hết phố Hồ, lên đê rẽ gặp điểm canh đê thứ hai sẽ có biển chỉ đường xuống làng Đông Hồ.
Tranh của làng Đông Hồ có từ thời Lê. Ở cái làng nghèo mà hào hoa như tranh Đông Hồ trước đây thường truyền nhau câu ca “Làng Mái có lịch có 26 sông tắm mát, có nghề làm tranh”. Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy về làng, vốn xưa tất cả đều làm tranh. Không khí sẩm uất vào cữ tháng một, tháng chạp, các thuyền từ xứ Đông, xứ Đoài ghé bên “ăn tranh”. Người làng tranh trước ở ngoài đê vào mùa vụ làm tranh cũng phải một sương nắng tất bật khuya sớm. Thôi thì chỗ này rậm rịch tiếng chày giã điệp, chỗ dỡ ván in tranh cọ rửa lau chùi sạch sẽ. Khói đốt than lá tre ấn hiện la đà các ngọn cây. Làng Đông Hồ ruộng đất ít, sống chủ yếu bằng nghề làm. Nghề làm tranh trong làng rất được trọng vọng. Ai có hoa tay, có thú chơi cấm, kỳ, thi, họa đều được mọi người vị nể (cũng là theo cái thú ta của nhà nho xưa). Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam. Trước kia tranh được bán chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dung tranh mới. Tranh làng Đông không phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà người ta dùng ván để in. Tranh được in hoàn toàn bằng tay với các bản màu; mỗi màu dùng một bản, và nét (màu đen) in sau cùng. Nhờ cách in này, tranh được “sản xuất” với số lượng lớn và không đòi hỏi kỹ năng cầu kỳ nhiều. Tuy nhiên vì in trên ván một cách thủ công, nên tranh bị hạn chế về mặt kích thước, thông thường tờ tranh không lớn quá 50cm mỗi chiều. Để có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ mẫu. Những người vẽ mẫu và bản khắc ván hỏi họ phải có lòng yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kỹ thuật cao. Công đoạn in tranh có lẽ không khó lắm bởi lẽ ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in. Giấy dùng in tranh là loại giấy gió mịn mặt. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chất điệp óng ánh lấy từ vỏ con sò, con hến tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dân gian Đông Hồ. Sau khi in thành tranh, kể cả lúc tranh khô, người xem vẫn cảm nhận được màu sắc của tranh thật tươi tắn như lúc tranh ướt. Các hình khối, mảng nọ đặt cạnh mảng kia sự ăn ý hài hoà một cách tự nhiên. Các màu đã hoà quyện in tranh thường từ chất liệu thiên nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rồi lấy than của màu xanh lấy từ vỏ và lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hòe, màu đỏ thắm lấy thân, rễ cây vang, màu son lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp… Xem tranh gian ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng họ; hợp tình. Tranh Đông Hồ còn hấp dẫn bởi vẻ rực rỡ, sắc màu tươi rói những bộ tứ binh, Thạch Sanh, những gà, lợn, mèo, chuột, ngựa… Một nhà xứ Kinh Bắc đã viết:
Có thể nói, cái đặc biệt của tranh Đông Hồ là ở chỗ đó. Tranh dân Hàng Trống, Kim Hoàng, Huế… không thể có sắc màu muôn hồng ngàn tía tranh Đông Hồ, cũng không thể có nền giấy điệp quyến rũ đó. Người sành tranh Đông Hồ chính bởi chất dân gian chứa đựng trong tờ tranh nền giấy điệp trắng ngà, lướt nhẹ lượt hoà vàng hay vàng đỏ.
Có một điều đặc biệt là người dân làng Hồ chuyên sản xuất tranh nhưng chẳng bao giờ treo trong nhà mà đem bán hoặc cho hết. Hàng năm làng Hồ cơ hội làng vào rằm tháng ba âm lịch. Trong hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có các làn điệu dân ca như:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu
Mua tờ tranh điệp tươi màu
Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiều.
Theo thời gian làng tranh cũng trải qua biết bao nhiêu thăng trầm. Các cụ nghệ nhân trong làng kể lại: Hồi Pháp thuộc, người ở nhà Bác Cổ thỉnh thoảng sẽ đánh xe ô tô về mua tranh, thậm chí mua cả bàn khắc tranh nữa! Nhà cụ Lừ bản khắc tranh gà rất quý đưa đi đóng cửa chuồng gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua cụ bán liền. Nghĩ lại mà tiếc! Còn nhớ cái thuở Tây càn, dân làng Hồ chạy loạn, binh lửa chiến tranh liên miên và cái khí hậu ẩm ướt khắc nghiệt của thiên nhiên miền Bắc, ván khắc tranh bị hỏng và thất lạc khá nhiều. Bản gốc tranh Đánh ghen, Gà đại cát, lợn ăn lá dày… cũng không còn nữa. Sau ngày Hòa Bình lập lại thấy trên báo Pháp có in tranh dân gian làng Hồ, Chính phủ e phải liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp xin cho khắc lại ván tranh để bảo tồn. Đã một thời gian tranh dân gian Đông Hồ bị lãng quên nên nghề làm tranh mai một ít nhiều. Không ít hộ bỏ làm tranh chuyển sang làm đồ vàng mã. Nhưng vài năm trở lại đây người Đông Hồ lại hoan hỉ trở lại với nghề tranh nhiều hơn bởi người dân của ta đã lại nhận ra vẻ đẹp trong sự mộc mạc giản dị của tranh Đông Hồ là không thể thiếu được trong cuộc sống thường nhật, nhất là ngày Tết.
Tranh Đông Hồ có một dạo lên đến điểm “cực thịnh”, đã từng sáng giá trong các triển lãm nghệ thuật lớn ở các nước trên thế giới với nét vẽ nhuần nhụy, tươi tắn như hồn người đất Việt. Không chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước yêu thích tranh dân gian Tết Đông Hồ vẽ tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội họa, mỹ thuật của nước ngoài cũng đến để nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Bà con Việt kiều khi về nước cùng phải tìm mua bằng được những bức tranh làng Hồ và cô Tố Nữ dáng quê hương, để khi ở xa quê trong sương mù Luân Đôn hay cái giá lạnh của Pa-ri hoa lệ, cảm thấy ấm lòng ở chốn tha hương.
(Thu Bồn)
Ai đã một lần đến Huế, hẳn sẽ không bao giờ quên xứ sở mộng mơ ấy. Trên dòng Hương Giang dùng dằng không chảy, những cánh hoa giấy lặng lẽ trôi theo dòng. Những cánh hoa ấy gợi nhắc về làng nghề truyền thống của Huế – Làng nghề hoa giấy Thanh Tiên.
Hoa giấy là một phần không thể thiếu vào ngày tết, đặc biệt là ở Cố đô Huế – Kinh đô của chế độ phong kiến cuối cùng ở nước ta. Làng hoa giấy Thanh Tiên thuộc xã Phú Mậu, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế đã ra đời gần 400 năm trước dưới thời các Chúa Nguyễn. Nhưng mãi cho đến năm 1802 mới được mọi người biết đến.
Người làng kể lại rằng năm đó, sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, nhân lễ Thượng tuần, nhà vua ban chiếu đề nghị mỗi một trấn đem về Kinh một loài hoa quý để dâng lên vua. Lúc này trong triều đình có một vị quan, người làng Thanh Tiên, làm ở Bộ Lễ chức Tả Hữu Đồng Nghị, dâng lên nhà vua một loài hoa ngũ sắc với đầy ý nghĩa độc đáo tượng trưng đầy đủ đạo lý Tam Cương – Ngũ Thường, ông tâu rằng: “Mỗi cành bao giờ cũng có tám hoa chính. Ba cành hoa ở giữa tượng trưng cho Trung – Hiếu – Nghĩa. Trong đó luôn luôn có một chiếc hoa màu vàng hoặc màu đỏ được làm to nhất tượng trưng cho Mặt trời, đấng minh quân, còn năm bông hoa hai bên tượng trưng cho Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín”. Nghe xong, nhà vua hiểu được ý nghĩa của loại hoa giấy Thanh Tiên, lấy làm thích thú, và sau đó ban chiếu khuyến khích người dân làng Thanh Tiên làm hoa giấy để bày biện, bán lên kinh đô và phổ biến nghề làm hoa giấy cho mọi người biết. Từ đó, nghề làm hoa giấy của làng nổi tiếng khắp đất nước.
Hoa giấy Thanh Tiên tuy đơn giản nhưng làm lại không dễ. Bởi lẽ ngoài sự khéo tay, người thợ còn phải có óc thẩm mỹ cao mới có thể cho ra đời những sản phẩm đẹp và tinh tế. Đặc biệt, người thợ phải có đức tính kiên trì, cần mẫn. Hoa giấy Tiên đặc biệt và đẹp nổi bật ở sự phong phú về màu sắc và có nhiều loại hoa khác nhau trên một cây bông, hình thức đẹp. Hoa để được lâu lại thể hiện sự trang nghiêm, một năm chỉ thay một lần vào dịp tết nên nó dễ được chấp nhận và tồn tại dài lâu. Những bông hoa giấy dưới đôi tay người nghệ nhân làng Thanh Tiên dù bằng giấy nhưng giống y như hoa thật, thậm chí còn sinh động hơn hoa thật.
Hoa giấy đã trở thành một phần của Huế, tạo nên nét đẹp mộng mơ của xứ sở này. Đồng thời, nó cũng tô điểm thêm cho cảnh sắc thiên nhiên. Hằng năm, đầu tháng Chạp, người dân làng Thanh Tiên đã bận rộn với việc chăm chút từng nhành hoa để kịp đón xuân về, tết đến, tô điểm thêm nét đẹp của tín ngưỡng dân gian Huế. Trên bàn thờ của người Huế luôn có một cây hoa giấy với nhiều màu sắc. Người dân xứ Huế đều ngưỡng mộ trước sự tài hoa, khéo léo và nghệ thuật làm hoa sen giấy của làng Hoa giấy Thanh Tiên. Hoa sen giấy Thanh Tiên còn là món quà mà nhiều du khách quốc tế yêu thích, mang về tận quốc gia của mình như: châu Âu, châu Mỹ, châu Úc.
Hoa sen giấy Thanh Tiên còn được cách tân làm biểu tượng trong các lễ hội lớn như Festival Huế, lễ hội áo dài, các chương trình giao lưu văn hóa nghệ thuật và được trưng bày ở Đại Nội – Huế, ở Nhà lưu niệm Nguyễn Chí Diểu (Thanh Tiên, Phú Mậu, Phú Vang, Huế).
Trải qua bao biến động của thời gian, dù nhiều loại hoa nhựa ra đời nhưng làng nghề hoa giấy Thanh Tiên vẫn luôn giữ được vị trí của mình. Không chỉ là một làng nghề truyền thống lâu đời, làng nghề hoa giấy Thanh Tiên còn là niềm tự hào của người Huế, lưu giữ nét đẹp văn hóa tinh thần mang đậm màu sắc Huế thương.
Mỗi khi câu thơ ấy vang lên, lòng tôi lại xao xuyến nhớ về màu tơ vàng óng làng Cổ Chất. Theo dòng chảy vô tình của thời gian, bao năm qua đi, ngôi làng ấy vẫn giữ được truyền thống cổ xưa nhất, tạo nên một làng nghề truyền thống nổi tiếng ở đất Thành Nam. Người ta gọi là Làng tơ Cổ Chất.
Làng Cổ Chất lặng lẽ đặt mình ở một vùng của xã Phương Đình, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Từ trung tâm thành phố Nam Định chạy thẳng theo quốc lộ 21 hoặc xuôi dòng sông Hồng yên ả khoảng 20km về phía Đông Nam, bạn sẽ chợt thấy mình như lạc vào một không gian đậm chất xưa của đồng bằng Bắc Bộ. Đó là làng tơ Cổ Chất. Làng nghề truyền thống khẽ nép mình bên dòng sông Ninh hiền hòa, thơ mộng.
Từ rất lâu trước kia, ngôi làng này đã nổi tiếng với nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Không có ai nhớ rõ nghề này đã theo làng từ lúc nào. Chỉ nghe các vị bô lão kể lại rằng: vào đầu thế kỷ XX, Pháp xây một nhà máy ươm tơ ngay đầu làng Cổ Chất để khai thác sức lao động và lợi thế của vùng dâu tằm sông Ninh.
Hồi tưởng lại quá khứ, những người có tuổi trong làng vẫn nhớ rõ khung cảnh tấp nập khi xưa của làng. Thương nhân ở khắp mọi nơi tìm về làng thu mua tơ lụa, đem bán ở bến Đò Chè – khu cảng sầm uất của Nam Định những năm trước 1945.
Cho tới hôm nay, làng có khoảng năm trăm hộ theo nghề ươm tơ. Tơ làng Cổ Chất có chất lượng rất tốt, những sợi tơ thanh mảnh, mềm mại, màu sắc tươi sáng. Người trong làng ươm cả tơ vàng và tơ trắng. Kén tằm được chọn lựa từ các vùng lân cận xa xôi hơn như Thanh Hóa, Hà Nam, Thái Bình. Ấn tượng đầu tiên khi mới bước chân đến ngôi làng cổ này là đâu đâu cũng thấy những bó tơ vàng, tơ trắng óng ả phơi trên những thanh sào tre. Thấp thoáng đâu đó là hình ảnh những người phụ nữ đang vắt những bó tơ vừa dệt. Tơ vàng, ánh mặt trời vàng hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh sặc sỡ sắc màu. Khoa học công nghệ phát triển, sản phẩm của làng bây giờ được sản xuất bằng cả phương pháp thủ công và máy móc, cho ra nhiều sản phẩm tơ đa dạng, chất lượng hơn.
Đi sâu vào những xưởng kéo tơ, ta lại càng ngỡ ngàng với những làn khói bốc nghi ngút từ nồi luộc kén. Ẩn phía sau những làn khói ấy là bóng dáng các bà, các chị đang miệt mài cho những chiếc kén tằm vào nồi, đôi tay khéo léo khuấy liên tục. Một lúc sau, kén thi nhau nhảy lên bàn kéo sợi, những sợi tơ chui qua lỗ nhỏ rồi cuốn mình vào guồng quay đang quay tít. Sau đó, những bó tơ vàng, tơ trắng được ra đời.
Về thăm làng Cổ Chất, bạn không chỉ được tận mắt chứng kiến các công đoạn ươm tơ dệt lụa mà còn có dịp chiêm ngưỡng một làng quê mang đậm nét truyền thống xứ Bắc. Dạo quanh làng, bạn sẽ nhìn thấy Vạn Cổ Hương và chùa Phổ Quang. Đó là quần thể kiến trúc được Bộ văn hóa cấp bằng di tích lịch sử – văn hóa đền chùa Cổ Chất. Đặc biệt, bạn còn được nghe kể về những câu chuyện xa xưa gắn liền với những công trình này.
Trong làng có Chùa thờ Phật, đền thờ bốn vị Thánh tổ có công khai phá và dựng nên làng Cổ Chất xưa kia. Để nhớ công lao của những vị thành hoàng, tri ân công đức của các bậc tiền nhân, mùng 6 tháng 3 âm lịch hằng năm, dân làng lại đón khách thập phương tới dâng hương. Cũng trong dịp đó, người dân nơi đây tổ chức các trò chơi dân gian như khởi đầu cho một mùa tơ vàng, một mùa lúa bội thu và cầu may cho một cuộc sống an khang thịnh vượng.
Làng tơ Cổ Chất từ lâu đã trở thành một làng nghề truyền thống của Nam Định. Nơi đây là quê nhà của những loại tơ tằm đẹp có tiếng đất thành Nam. Những bó tơ vừa bền vừa đẹp, qua đôi tay những nghệ nhân đi đến mọi miền đất nước, dệt lên những bộ quần áo duyên dáng cho con người. Tơ Cổ Chất là nguồn kinh tế của cả một làng nghề, là lịch sử văn hóa soi chiếu lâu đời. Về làng cổ này, ta được tiếp xúc với những con người chân chất, hiền lành, gắn bó cả đời với nghiệp ươm tơ, dệt lụa và ngắm nhìn những khung cảnh tuyệt đẹp.
Qua bao thăng trầm của lịch sử, tới tận hôm nay, Cổ Chất trở thành một làng nghề truyền thống nổi tiếng khắp mọi vùng miền của Tổ quốc. Dù cho bao lâu đi nữa, làng nghề truyền thống ấy vẫn sống mãi trong tim những thế hệ hôm nay và cả mai sau.
Đến với mỗi vùng miền khác nhau của đất nước, ta lại được thưởng thức những cái riêng mà chỉ có vùng đất ấy mang lại. Ai đã qua miền Tây Nam Bộ, không thể quên những vườn cây trĩu trái, những món cá sông nước đặc sản của vùng miền. Ai đã một lần tới với Hà Nội không thể không thưởng thức món bún chả nổi tiếng khắp nơi. Còn đến với Thái Bình – một tỉnh đồng bằng nhỏ ở miền nông thôn Bắc Bộ, chúng ta không thể bỏ qua món bánh cáy làng Nguyễn đã sớm vang danh khắp cả nước.
Khi nhắc tới Thái Bình, hẳn ai cũng sẽ nhớ ngay tới chùa Keo, một trong những ngôi chùa với lối kiến trúc đẹp và cổ kính bậc nhất Việt Nam. Nhưng Thái Bình không chỉ có vậy, mà nơi đây còn có một món ăn – món đặc sản – nét văn hóa ẩm thực đặc sắc nhất mà người Thái Bình vô cùng tự hào, đó là món bánh cáy làng Nguyễn.
Bánh cáy đã xuất hiện từ lâu đời, khoảng hai trăm tới ba trăm năm trước, từ thời đất nước ta còn trong chế độ phong kiến. Loại bánh này đã trở thành một món ăn truyền thống và trở thành đặc sản vùng miền để dâng lên vua chúa ngày xưa. Chính sự lan tỏa rộng rãi của món bánh này đã giúp hình thành nên một làng nghề làm bánh cáy nổi tiếng ở Thái Bình, đó là làng Nguyễn (thuộc Đông Hưng, Thái Bình). Và cũng chỉ ở tại ngôi làng này, người ta mới có thể được thưởng thức hương vị nguyên chất nhất của chiếc bánh cáy từ thời xưa.
Đối với nhiều người, món bánh cáy có thể khá lạ lẫm. Món bánh cáy được làm từ những nguyên liệu chính là gạo nếp, nhưng lại tạo nên một nét hương vị riêng không nơi nào có thể làm ra được. Để làm ra một chiếc bánh cáy thơm ngon, người ta cần dùng rất nhiều nguyên liệu, không thể thiếu trong số các nguyên liệu chính là gạo nếp, mỡ lợn, lạc, gấc, vừng, dừa… và điều quan trọng không thể thiếu đó là phải chọn lựa nguyên liệu thật cẩn thận. Vậy nên, ngay từ trước khi chuẩn bị làm bánh khoảng nửa tháng, người thợ làm bánh đã phải chọn ra những lạng mỡ lợn tươi ngon nhất để đem muối. Mỡ lợn được cho là ngon phải có độ tươi, dẻo, đàn hồi và có độ trắng nhất định, được lấy từ con lợn ngon nhất.Sau đó, mỡ lợn được đem ướp muối và đường trong vòng nửa tháng để tạo nên thành phần ngon nhất của chiếc bánh cáy. Đến khi mỡ lợn đạt được độ chín nhất định, người ta mới lấy ra mà bắt đầu công đoạn làm một chiếc bánh cáy. Ngoài mỡ lợn, việc chọn các nguyên liệu khác cũng là một công đoạn cực kì quan trọng. Gạo nếp được chọn để làm bánh phải là loại gạo nếp cái hoa vàng – một loại nếp đặc sản của vùng đồng bằng, được xay xát và vo cẩn thận. Người ta sẽ vo gạo nếp từ đêm hôm trước,ngâm trong nước lạnh qua một đêm để gạo có được độ mềm và nở. Sau đó, gạo nếp được vớt lên để ráo nước, một phần được cho lên chảo bung lên thành các hạt bỏng gạo. Trong bước này, người làm bánh sẽ cẩn thận loại bỏ hết các lớp vỏ trấu còn sót lại trên những hạt gạo, để có được những hạt bỏng gạo trắng và sạch sẽ nhất. Phần còn lại của gạo nếp sẽ được nấu thành xôi, gồm xôi gấc và xôi nghệ. Trong lúc nấu xôi, người nghệ nhân làm bánh phải canh giờ để xôi vừa chín tới sẽ được mang ra ngay, sau đó được cho vào cối đá giã đều tay cho thật nhuyễn và mịn. Xôi sau khi được giã sẽ được đem đi cán mỏng thành từng miếng nhỏ rồi đem sấy cho thật khô. Trong thời gian chờ xôi được sấy, người thợ bánh sẽ bắt tay ngay vào việc chuẩn bị nốt những nguyên liệu còn lại của chiếc bánh cáy. Đó là những thành phần phụ tạo nên mùi thơm cũng như nét đặc trưng của chiếc bánh. Không thể thiếu trong chiếc bánh cáy mà mùi thoang thoảng của vỏ quýt thơm, mùi gừng đậm đà nồng nồng, vị ngọt mát của đường mía, cái giòn giòn của cà rốt. Bởi vì từ gừng, người thợ bánh đã khéo léo giã nát, rồi pha thành một thứ nước gừng, cùng với đó là nước đường pha đặc, được cho lên bếp đảo đều cùng với cà rốt và vỏ quýt. Chắc hẳn ai đã từng được nếm thử bánh cáy sẽ không thể quên được hương vị của những nguyên liệu độc đáo này.
Advertisement
Tiếp theo, khi đã được sấy khô, những lát xôi lại được đem đi nghiền nát thành bột mịn. Còn mỡ lợn được đem ra từ thùng muối, thái thành miếng kiểu hạt lựu rồi cho lên bếp xào cùng đường cho đến khi mỡ chuyển màu và vàng giòn thì người ta sẽ trút hết bột xôi vào đó, khuấy thật đều tay để tạo nên mùi thơm. Tiếp đó, tất cả các nguyên liệu sẽ được trộn đều cùng. Trong bước này, người thợ bánh phải là người có đôi tay thật dẻo, thật khéo léo thì mới có thể tạo nên được một chiếc bánh với màu sắc và độ sánh thật đẹp được.
Cuối cùng trong các công đoạn là rắc vừng và lạc. Lạc và vừng sau khi được người thợ làm bánh khéo léo rang vàng lên, tỏa ra một mùi thơm bùi béo đặc trưng thì được đem rải thật đều vào mặt đáy của khuôn bánh. Người thợ làm bánh cứ vậy mà trút những nguyên liệu đã được làm tỉ mỉ ở trên vào khuôn rồi dùng tay ấn bánh xuống cho thật chặt. Để chờ cho tới khi bánh trong khuôn nguội và kết dính lại với nhau, đem ra ngoài, ta đã có được món bánh cáy truyền thống – đặc sản của người dân Thái Bình.
Ngày xưa, trong lớp nguyên liệu còn có cả trứng của loài cáy biển nữa. Vậy nên, bánh mới có cái tên rất đặc biệt – bánh cáy. Sau này, nguyên liệu này dần không còn phổ biến và không còn được sử dụng nữa, nhưng cái tên bánh cáy đã trở thành một món bánh ngon không thể thiếu của người dân quê hương Năm Tấn. Bánh cáy của Thái Bình chỉ có một loại duy nhất làm nên thương hiệu cho đặc sản của xứ này. Đó là bánh cáy được làm ra từ làng Nguyễn. Loại bánh này đã được phổ biến rộng rãi khắp cả nước, tạo nên một thương hiệu riêng mang tên bánh cáy làng Nguyễn nổi tiếng khắp cả nước ta.
Kỳ công là vậy để tạo nên một chiếc bánh cáy, nhưng để thưởng thức cho đúng cái vị bánh thì không phải ai cũng rành. Để có thể thưởng thức được trọn vẹn hương vị và độ ngon của bánh, người ta phải cắt thành từng miếng nhỏ, vừa ăn vừa nhâm nhi một chén trà nóng thì quả thực mới nếm hết được cái hồn của bánh cáy Thái Bình. Bánh cáy xưa kia chỉ được làm mỗi dịp tết đến, đón xuân về, người ta mới được dịp ngồi lại cùng nhau thưởng thức nó. Nhưng ngày nay, khi cuộc sống càng ngày càng đủ đầy, người ta lúc nào cũng có thể thưởng thức được món bánh ngon này. Và không thể thiếu trong túi quà của những ai đã từng tới Thái Bình là món bánh cáy truyền thống này để làm quà cho mọi người. Bánh cáy cũng là món bánh được những người con Thái Bình xa xứ thương nhớ gửi làm quà cho các bạn từ phương xa.
Bánh cáy từ lâu đã trở thành một phần văn hóa tinh thần của người dân Thái Bình. Đi tới đâu, gặp bất cứ ai, khi hỏi về những món ăn ngon của quê hương mình, mỗi người con Thái Bình sẽ tự hào nói tên món bánh cáy. Không chỉ trong đời sống hàng ngày của người dân, bánh cáy đã trở thành món đặc sản không thể thiếu của những ai đã từng một lần tới thăm mảnh đất này.Bởi vì trong đó chứa đựng tất cả những tinh hoa, những phong tục, và nét văn hóa ẩm thực riêng, không nơi nào có của vùng đất đồng bằng này.
Giờ đây, khi tới với Thái Bình, các bạn sẽ không chỉ thăm quan những cảnh đẹp, những thắng cảnh tuyệt sắc mà chắc chắn sẽ không thể nào quên thưởng thức món bánh cáy truyền thống ở nơi đây. Trải qua bao thăng trầm, bao biến cố, món bánh này sẽ mãi là một món quà đặc biệt, một nét văn hóa ẩm thực, một đặc sản không thể nào quên của quê hương Thái Bình.
Mảnh đất thủ đô nghìn năm văn hiến – Hà Nội không chỉ có những danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Mà còn có rất nhiều làng nghề truyền thống. Một trong số đó là gốm Bát Tràng.
Làng gốm Bát Tràng bao gồm hai thôn Bát Tràng và Giang Cao, thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm. Làng gốm Bát Tràng cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng chừng 30km về phía Đông Nam. Đầu tiên về tên gọi của làng gốm Bát Tràng có thể hiểu theo nghĩa Hán Việt, “bát” là từ dùng để chỉ đồ gốm, chén bát nói chung còn “tràng” chính là chỗ đất dành riêng cho một lĩnh vực, một chuyên môn nào đó.
Làng gốm Bát Tràng là một làng nghề truyền thống nổi tiếng về sản xuất gốm. Bởi vậy nên quá trình sản xuất gốm ở làng gốm Bát Tràng luôn có những điểm độc đáo, đặc sắc riêng. Điều quan trọng đầu tiên để tạo nên một sản phẩm gốm chất lượng đó chính là việc lựa chọn đất. Nguồn nguyên liệu chủ yếu để làm gốm đó chính là đất sét trắng. Ngày nay, đất sét trắng để làm gốm Bát Tràng có thể được lấy từ trong làng hoặc từ các vùng khác như Hồ Lao, Trúc Thôn… Sau khi đã lựa chọn được đất sét trắng làm nguyên liệu, các nghệ nhân làm gốm sẽ bắt tay vào việc xử lý, pha chế đất bởi lẽ trong đất sét có lẫn tạp chất và đồng thời việc xử lý đất sẽ tạo ra những nguyên liệu phù hợp đối với từng loại sản phẩm. Ở làng gốm Bát Tràng vẫn tuân theo quy luật xử lý đất truyền thống là thông qua việc ngâm nước ở hệ thống bốn bể nước với các độ cao khác nhau. Đất sét trắng sau khi được xử lý sẽ được đem đi tạo dáng và ở nơi đây người ta tạo dáng bằng tay trên bàn xoay – đây là phương pháp tạo dáng truyền thống từ ngàn đời nay. Bằng đôi bàn tay khéo léo, sử tỉ mỉ, cẩn trọng, những nghệ nhân làng gốm đã tạo ra nhiều loại đồ gốm với những hình dáng, mẫu mã và chủng loại khác nhau. Tạo dáng xong, các sản phẩm sẽ được đem đi phơi sấy và sửa lại theo mong muốn của người làm.
Ở làng gốm Bát Tràng, việc phơi sấy thường được sử dụng là hong khô trên giá và để ở nơi thoáng mát. Nhưng ngày nay, một số người lựa chọn sấy sản phẩm ở trong các lò sấy và tăng nhiệt độ từ từ. Sau khi đã tạo ra được sản phẩm gốm như mong muốn, những nghệ nhân làm gốm sẽ tiến hành trang trí, quét men lên sản phẩm để phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người sử dụng. Cuối cùng, đó chính là nung gốm trong các lò. Và như vậy, trải qua nhiều công đoạn khác nhau, những nghệ nhân làng gốm Bát Tràng đã có thể tạo ra được những sản phẩm gốm độc đáo.
Làng gốm Bát Tràng là một trong số những làng nghề nổi tiếng của nước ta từ ngàn đời nay. Những sản phẩm của làng gốm Bát Tràng luôn nhận được sự ưa chuộng, yêu mến của mọi người không chỉ bởi mẫu mã đa dạng mà còn bởi sự tuyệt vời về chất lượng. Hiện nay, đồ gốm Bát Tràng không chỉ có mặt ở khắp nơi trên đất nước ta mà còn được xuất khẩu ra nhiều thị trường lớn trên thế giới như châu u, Mỹ, Hàn Quốc… Thêm vào đó, nơi đây còn là một địa điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước về tham quan và tự mình nhào nặn nên những sản phẩm đồ gốm tuyệt diệu.
Làng gốm Bát Tràng – một làng nghề nổi tiếng ở Việt Nam. Nơi đây đã góp phần lưu giữ những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Cây Bút Bi (Dàn Ý + 5 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay
TOP 5 bài Thuyết minh về cây bút bi lớp 9 ngắn gọn, siêu hay, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu hơn về nguồn gốc, xuất xứ, cấu tạo, nguyên lý hoạt động, cũng như công dụng của chiếc bút bi trong cuộc sống của con người.
Bút bi như người bạn nhỏ, thân thiết đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Bút bi cũng có rất nhiều kiểu dáng và màu sắc khác nhau. Chi tiết mời các em cùng tải miễn phí 5 bài thuyết minh bút bi lớp 9 để ngày càng học tốt môn Văn 9 hơn.
I. Mở bài
Giới thiệu chung về cây bút bi.
II. Thân bài
1. Giới thiệu nguồn gốc của bút bi
Người được cấp bằng phát minh đầu tiên: John J. Loud (Mỹ), nhưng phải đến Lazo Biro (Hungary) thì chiếc bút bi mới thực sự được hoàn thiện.
Lý do phát minh: phát hiện loại mực dùng in giấy rất nhanh khô, nghiên cứu để làm ra loại bút sử dụng loại mực này.
2. Cấu tạo cơ bản của bút bi
Vỏ bút: phần bên ngoài, hình ống trụ, dài khoảng 14 – 15cm, chất liệu nhựa dẻo hoặc nhựa màu, trên thân thường in các thông số sản xuất.
Ruột bút: phần bên trong, làm từ chất liệu nhựa dẻo, chứa mực đặc hoặc mực nước.
Các bộ phận đi kèm: lò xo, nút bấm, đai ngoài vỏ.
3. Phân loại
Theo kiểu dáng (đa dạng, phong phú…)
Theo màu sắc mực (xanh, đỏ, tím, đen…)
Theo hãng sản xuất (trong nước và nước ngoài)
4. Tác dụng
Dùng để ghi chép sách vở, nhật ký…
Gắn bó với học sinh, sinh viên như một người bạn.
5. Ưu, nhược điểm
* Ưu điểm:
Gọn nhẹ, dùng bền.
Giá rẻ hơn nhiều so với các loại bút ngòi.
Giúp viết chữ nhanh.
Làm chữ viết trên giấy mau khô, không bị thấm mực sang trang khác.
* Nhược điểm:
Viết nhanh dễ làm nét chữ cứng, mất thanh, đậm.
Chỉ dùng được một lần (đến khi hết mực), đa số không thể tái sử dụng.
III. Kết bài
Đánh giá cá nhân về cây bút bi (vai trò, tình cảm…).
Trên con đường lĩnh hội tri thức, hàng ngày cắp sách đến trường, bút bi là một người bạn rất thân thuộc và gần gũi với mỗi người học sinh. Nếu học tập là một công việc đầy gian nan, vất vả thì chiếc bút bi cũng đóng góp một phần không nhỏ vào công việc ấy.
Nếu chữ viết đánh dấu một trong những bước khởi đầu đáng nhớ của văn minh loài người thì cây bút chính là công cụ ghi lại những sáng tạo rực rỡ của nền văn minh ấy. Một trong những tổ tiên của cây bút hiện đại ngày nay là bút lông vũ, được làm từ lông của các loài chim lớn, chấm vào mực rồi viết lên giấy. Nhưng không thể lúc nào cũng kè kè lọ mực bên mình, người ta sáng tạo ra bút máy. Bút máy cũng có một số nhược điểm như: giấy tờ lem luốc, phải thường xuyên bơm mực, vì thế, vào năm 1938, một nhà báo người Hungary đã sáng chế ra bút bi. Tính đến nay, bút bi đã có rất nhiều cải tiến về hình dạng, chất lượng và được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Bút bi có ba bộ phận chính là ruột bút, vỏ bút và bộ phận điều khiển. Vỏ bút thường được làm bằng nhựa hoặc kim loại, rất đa dạng về kiểu dáng và màu sắc. Vỏ bút như một cái áo bảo vệ cho ruột bút và lò xo bên trong. Ruột bút dài khoảng 10 cm, làm bằng nhựa dẻo, bên trong là mực. Nếu ví vỏ bút là cơ thể con người thì mực chính là máu đi nuôi cơ thể ấy. Ở đầu ruột bút là ngòi bút, làm từ kim loại không rỉ, gắn với một viên bi nhỏ xíu có đường kính từ 0,3-0,5 mm, viên bi này có tác dụng đẩy cho mực ra đều. Bộ phận điều khiển gồm lò xo kết hợp với đầu bấm ở cuối thân bút. Lò xo co dãn giúp cho ta điều khiển bút dễ dàng. Khi muốn sử dụng, ta chỉ việc bấm đầu bút, ngòi bút sẽ lộ ra, còn nếu không muốn sử dụng, ta lại bấm nhẹ một lần nữa, ngòi bút sẽ thụt vào. Điểm này ở bút bi khác với bút máy ở chỗ bút máy thường có nắp đậy, bút bi vì thế mà tiện dụng hơn nhiều.
Bút bi là đồ vật tiện dụng có mặt hầu hết trong các lĩnh vực. Bút giúp người học sinh ghi lại các kiến thức đã được tiếp thu. Với nhà văn, bút là công cụ để họ ghi chép những sáng tạo của mình lên trang giấy, với người làm báo, bút bi là vật không thể thiếu để họ tốc ký thật nhanh những tin tức, sự kiện nóng hổi diễn ra từng phút. Bút còn là món quà nhỏ xinh và ý nghĩa chúng ta có thể tặng nhau. Bút bi nhỏ gọn và tiện dụng nên chúng ta có thể mang theo bên mình đi khắp mọi nơi.
Cùng với sự thay đổi của thời gian, bút bi ngày nay cũng có nhiều cải tiến với nhiều chủng loại, mẫu mã đa dạng để phù hợp với mục đích sử dụng. Có nhiều loại mực như: mực xanh, mực đen, mực đỏ, mực dầu, mực nhũ… Các loại bút cũng vô cùng phong phú, từ bút bi đến bút dạ quang, bút đánh dấu… Tuy vậy bút bi cũng có hai loại chính là bút dùng một lần và bút dùng nhiều lần. Với bút dùng nhiều lần, khi hết mực, bạn chỉ cần thay ruột bút mới là lại có thể sử dụng tiếp. Giá của một chiếc bút bi cũng khá rẻ, từ vài nghìn đến vài chục nghìn đồng, tùy kiểu dáng, mẫu mã. Một số hãng sản xuất bút bi nổi tiếng là Thiên Long, Bến Nghé…
Để dùng được lâu, bạn nên bảo quản bút bằng cách bấm cho ngòi bút thụt vào khi không sử dụng, tránh làm rơi bút xuống đất dễ hỏng ngòi. Tuy vậy, bút bi cũng có một số bất tiện như hay bị tắc mực, khi đã viết đẹp và nhanh ta mới nên sử dụng bút bi.
Bút bi là người bạn nhỏ luôn sát cánh với chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Ông cha ta đã nói: “Nét chữ nết người”, vì thế chúng ta hãy biết trân trọng và nâng niu chiếc bút để viết nên những con chữ thật đẹp. Nếu thiếu đi người bạn nhỏ hữu ích ấy, phải chăng con đường đến với tri thức của chúng ta cũng gian nan thêm gấp bội phần?
Một trong những đồ dùng vô cùng hữu ích đối với con người đó chính là cây bút bi. Nó là sản phẩm được tạo ra bằng trí tuệ của con người, là một trong những phát minh quan trọng của con người.
Bút bi là một đồ vật vô cùng thông dụng trong cuộc sống hiện đại. Nguyên lý hoạt động của một chiếc bút bi đó là nó có chứa một ống mực đặc, khi viết, mực được in lên giấy là nhờ chuyển động lăn của một viên bi nhỏ, với đường kính khoảng từ 0,5 đến 1.2 mm, gắn nơi đầu ống chứa mực. Điều đặc biệt là loại mực của chiếc bút khô rất nhanh, ngay khi chúng ta viết lên giấy nó đã khô để tránh bị lem ra giấy. Những chiếc bút bi thì lại vừa rẻ tiền, vừa thuận tiện và không cần bảo dưỡng, đã cải tiến cách viết của con người.
Lịch sử của chiếc bút bi như thế được ra đời bắt nguồn Một người Mỹ tên là John Loud đã xin cấp bằng sáng chế bút bi vào năm 1888 nhưng không được khai thác thương mại, do khả năng ứng dụng của phát minh này là không cao. Mãi cho đến năm 1938, một nhà báo người Hungary mới giới thiệu loại bút bi hiện đại. Vào những năm 1930, Lazo Biro – một cộng tác viên biên tập cho một tờ báo chí nhỏ. Ông rất thất vọng về những cây bút máy khi chúng luôn làm bẩn giấy tờ và thường xuyên bị hỏng. Với sự thông minh và được sự giúp đỡ của anh trai tên George, là một kỹ sư hóa học, Lazo Biro bắt đầu công việc thiết kế ra một loại bút mới. Ông đã lắp vào đầu bút một viên bi nhỏ, có thể xoay tự do trong một cái hốc. Khi di chuyển đầu bút trên giấy, viên bi đó xoay tròn, và kéo mực xuống in trên giấy. Lazo Biro nhận bằng sáng chế Anh Quốc vào năm 1938.
Phân loại bút bi có thể dựa trên nhiều cơ sở. Tuy nhiên thông thường có hai loại bút đó là bút dùng một lần còn loại còn lại là bút dùng nhiều lần. Đối với bút dùng một lần thì cấu tạo vô cùng đơn giản, vỏ bút được làm bằng nhựa bao quanh ruột bút khi viết hết mực thì chúng ta bỏ đi. Đối với bút sử dụng nhiều lần thì vỏ bút được làm bằng hợp kim vô cùng chắc chắn bao quanh ruột bút, khi hết mực thì chúng ta chỉ cần thay ruột bút là có thể viết tiếp được bình thường mà không cần mua một cây bút mới. Ngoài ra bút bi cũng có thể có nắp đậy khi không dùng tới, hoặc nó dùng cách kéo đầu bi vào trong khi không dùng. Để đưa đầu bi vào trong cần phải có lò xo để kéo vào. Việc điều khiển đầu bi có thể dùng nhiều cách khác nhau như dùng nút bấm ở đầu, xoay thân bút, hoặc trượt.
Ở Việt Nam, có lẽ loại bút bi phổ biến nhất được sử dụng là của hãng Thiên Long. Giá của một chiếc bút khoảng tầm từ 3000 – 5000 đồng/1 chiếc. Cũng có nhiều loại đắt hơn rất nhiều do được sản xuất cầu kì hơn về hình dáng bên ngoài hoặc chất lượng ở bên trong. Bút bi có tác dụng rất lớn, nó là vật không thể thiếu đối với học sinh, sinh viên, đặc biệt là những người làm công việc viết lách. Nhờ có chiếc bút bi mà chúng ta có thể ghi lại những bài học, những ý tưởng, những bài văn, bài thơ hay đơn giản là ghi lại những thông tin cần chú ý ghi nhớ. So với bút mực, bút bi có ngòi bút viết trơn hơn, do đó người viết có thể viết tốc độ nhanh hơn lại không bị dây bẩn mực ra tay, chữ viết không bị nhòe.
Tuy bút bi rẻ và phổ biến như vậy nhưng đối với học sinh mới luyện chữ không được sử dụng bút bi, vì nét chữ của nó rất cứng cáp, dễ gây hỏng nét chữ. Bút bi có rất nhiều công dụng và theo thời gian nó vẫn là một dụng cụ không thể thay thế được trong cuộc sống của chúng ta. Không chỉ vậy, một cây bút bi còn gắn với lứa tuổi học trò trên những trang lưu bút đầy nét bút yêu thương, hay những nét chữ trên chiếc áo trắng tinh khôi.
Bút bi đã trở thành người bạn đồng hành trong suốt những năm tháng học tập hay làm việc của con người. Chúng ta hãy biết ơn những người đã phát minh ra chiếc bút bi – một vật dụng vô cùng tiện ích.
Đã từ lâu, cây bút bi trở thành một đồ dùng học tập, làm việc quen thuộc và không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Một chiếc bút bi tuy đơn giản là vậy nhưng để phát minh ra nó lại phải trải qua một quá trình.
Bằng sáng chế cho chiếc bút bi đầu tiên công nhận vào ngày 30 tháng 10 năm 1888 với tác giả là John J. Loud (Mỹ) – người đã tạo ra một công cụ viết có thể viết “trên bề mặt thô, chẳng hạn như gỗ, giấy gói thô và các sản phẩm khác” mà những chiếc bút thông thường không thể làm được. Chiếc bút của Loud có một bi thép nhỏ, được giữ chặt bằng khung thép. Mặc dù nó có thể được sử dụng để đánh dấu trên các bề mặt thô như da, nhưng nó quá thô để có thể viết chữ. Nhưng phát minh này của ông không được thương mại hóa mà chỉ có thể cất vào “tủ kính” do tính ứng dụng không cao. Chỉ đến những năm 1930, khi Lazo Biro (Hungary) đang làm cộng tác viên biên tập cho một tờ báo chí nhỏ. Điều làm ông thất vọng là việc những cây bút máy luôn làm bẩn giấy tờ và thường xuyên bị hỏng. Một hôm, Biro ra công viên, thấy một bọn trẻ chơi bi. Một viên bi vô tình chạy qua vũng nước, để lại sau một vệt dài. Viên bi đó khiến ông nảy ra một ý tưởng đặt viên bi ở đầu bút để nó truyền mực trong ống ra giấy. Khi đi thăm một xưởng in báo nó, ông đã phát hiện ra loại mực dùng để in báo rất nhanh khô, nhờ đó giấy không bị mực làm bẩn và ông quyết định tạo ra một loại bút sử dụng loại mực giống như vậy. Được sự giúp đỡ của anh trai tên George, là một nhà hóa học, Biro bắt đầu công việc thiết kế ra một loại bút mới. Năm 1944, ông được nhận bằng sáng chế vào ngày 10 tháng 6, với mẫu “Biro Pens of Argentina”. Từ đó bút bi được bán tại Argentina với thương hiệu Birome. Loại bút này được rất ít người biết. Biro được biết đến ở Argentina với cái tên “Lisandro José Bíró”. Mẫu bút mới này cũng được nhận bằng công nhận bản quyền Anh Quốc. Quả là phát minh ra một chiếc bút bi thật không dễ dàng.
Về hình dáng, một chiếc bút bi có hình trụ dài đường kính khoảng 0,8 cm, chiều dài khoảng 15 cm. Cấu tạo cơ bản của một chiếc bút bi gồm ba phần: vỏ bút, ruột bút và các bộ phận đi kèm. Phần bên ngoài là vỏ bút có hình ống trụ, dài 14 – 15cm, làm bằng nhựa dẻo hoặc nhựa màu, trên thân thường in các thông số sản xuất. Phần bên trong gọi là ruột bút, làm từ chất liệu nhựa dẻo, chứa mực đặc hoặc mực nước. Cuối cùng là các bộ phận đi kèm bao gồm lò xo, nút bấm, đai ngoài vỏ. Mực bút bi thường là một loại bột nhão chứa khoảng 25 đến 40 phần trăm thuốc nhuộm. Các loại mực của bút bi có khả năng khô rất nhanh.
Dựa vào cấu tạo, ta có thể phân ra hai loại bút chính là bút bấm vào bút nắp. Trong phần ruột của bút bấm thường có gắn một chiếc lò xo dài khoảng 3cm có đàn hồi tốt ôm lấy ruột bút từ đầu kim loại gắn viên bi lên trên, phần đầu bút được thiết kế chức năng bấm để mở hoặc tắt bút khi kết hợp cùng chiếc lò xo. Còn bút nắp thường không có lò xo, phần đầu bút cấu tạo đơn giản hơn bút bấm và có một chiếc nắp để mở ra đóng vào khi cần hoặc không cần sử dụng.
Dựa vào thời hạn sử dụng, người ta chia bút bi thành bút bi sử dụng một lần và nhiều lần. Bút bi sử dụng một lần thường làm bằng nhựa, sử dụng một lần rồi bỏ. Loại bút này thường có giá thành rẻ trên thị trường nên được sử dụng rộng rãi và phù hợp với đối tượng học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, hiện nay người ta cải tiến hơn nên đã sản xuất ruột bút để có thể thay khi hết mực, nhưng do có giá thành rẻ nên người sử dụng vẫn thường bỏ đi. Bút bi sử dụng nhiều lần thì sau khi hết mực, chúng ta có thể bơm loại mực chuyên dụng của nó hoặc thay ruột cho bút để sử dụng cho những lần sau. Ưu điểm của loại bút này là thân thiện với môi trường và tạo cảm giác thân thuộc với người sử dụng vì khi họ quen sử dụng chúng thì không còn lo sợ hết mực phải thay chiếc bút khác.
Bút bi vô cùng phổ biến trong cuộc sống mà mọi người đều phải một lần cần dùng đến. Nó giúp chúng ta ghi chép lại kiến thức, những điều cần thiết… Ngày xưa, khi khoa học – công nghệ còn chưa phát triển, những chiếc bút bi vẫn luôn là người bạn gắn bó, cùng với cuốn sổ lưu bút được truyền tay nhau để ghi lại những tâm tư tình cảm của tuổi học trò.
Ưu điểm của một chiếc bút bi là gọn nhẹ, dùng khá bền, mực chảy đều và ít bị lem mực. Các loại bút bi có giá rẻ hơn nhiều so với các loại bút máy. Khi viết bút bi, chúng ta sẽ viết chữ nhanh hơn, thuận tiện cho công việc ghi chép bài giảng của thầy cô. Bên cạnh đó, nó còn có những nhược điểm như việc viết quá nhanh dễ làm nét chữ cứng, mất thanh, đậm. Ngoài ra, người ta chỉ bút bi một lần (đến khi hết mực) rồi sau đó bỏ đi, đa số không tái sử dụng lại.
Thế mới thấy bút bi là người bạn đồng hành thân thiết trong cuộc sống của con người. Chính vì vậy, mỗi người hãy biết trân trọng, giữ gìn chúng.
Bút bi là một vật dụng vô cùng cần thiết trong cuộc sống của con người, đặc biệt là với đối tượng học sinh, sinh viên.
Vậy một chiếc bút bi được phát minh ra như thế nào. Bằng sáng chế cho chiếc bút bi đầu tiên công nhận vào ngày 30 tháng 10 năm 1888 với tác giả là John J. Loud (Mỹ) – người đã tạo ra một công cụ viết có thể viết “trên bề mặt thô, chẳng hạn như gỗ, giấy gói thô và các sản phẩm khác” mà những chiếc bút thông thường không thể làm được. Chiếc bút của Loud có một bi thép nhỏ, được giữ chặt bằng khung thép. Mặc dù nó có thể được sử dụng để đánh dấu trên các bề mặt thô như da, nhưng nó quá thô để có thể viết chữ. Do không được thương mại hóa, tiềm năng bút của Loud đã không được khai thác và bằng sáng chế cuối cùng đã hết thời hạn bản quyền. Và việc sản xuất các bút bi một cách đại trà như bây giờ được xuất phát từ các thử nghiệm, phát triển của hóa học hiện đại và khả năng sản xuất thì phải đến đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, việc các bằng sáng chế được đăng ký trên toàn thế giới trong quá trình phát triển sơ khai của bút bi là những bằng chứng cho những nỗ lực thành công trong việc làm cho những chiếc bút bi trở nên hiệu quả về mặt thương mại và được dùng phổ biến.
Đa số các loại bút bi ban đầu khi viết ra mực không đều; vấn đề gặp phải nhiều nhất của các loại bút khi ấy là tràn mực và tắc mực – đây là nhược điểm hàng đầu cần phải xử lý. Vào những năm 1930, Lazo Biro (Hungary) khi đang làm cộng tác viên biên tập cho một tờ báo nhỏ. Vào thời đại khi ấy, công việc này đòi hỏi ông phải viết rất nhiều, nhưng những cây bút máy luôn làm bẩn giấy tờ và thường xuyên bị hỏng – điều đó khiến ông vô cùng khó chịu, thậm chí là thất vọng. Trong một lần ông ra công viên nhìn thấy bọn trẻ chơi bi. Một viên bi vô tình chạy qua vũng nước, để lại sau một vệt dài. Viên bi đó đã khiến ông nảy ra sinh ra ý tưởng đặt viên bi ở đầu bút để nó truyền mực trong ống ra giấy. Ông đã đến thăm thăm một xưởng in báo. Biro để ý rằng, loại mực dùng để in báo rất nhanh khô, nhờ đó giấy không bị mực làm bẩn và ông quyết định tạo ra một loại bút sử dụng loại mực giống như vậy. Nhờ có sự giúp đỡ của anh trai tên George – một nhà hóa học, Biro bắt đầu công việc thiết kế ra một loại bút mới. Đầu tiên, Biro lắp vào đầu bút một viên bi nhỏ, có thể xoay tự do trong một cái hốc. Khi di chuyển đầu bút trên giấy, viên bi đó xoay tròn, và kéo mực xuống in trên giấy. Sau khi phát minh thành công, Biro được nhận bằng sáng chế Anh Quốc vào năm 1938, cũng tại năm đó một nhà báo người Hungary mới giới thiệu loại bút bi hiện đại. Năm 1944, Biro nhận bằng sáng chế vào ngày 10 tháng 6, với mẫu bút mới – Biro Pens of Argentina. Cũng từ đó bút bi được bán tại Argentina với thương hiệu Birome. Loại bút này được rất ít người biết. Biro được biết đến ở Argentina với cái tên “Lisandro José Bíró”. Mẫu bút mới này cũng được nhận bằng công nhận bản quyền Anh Quốc.
Bút bi thon nhỏ có hình trụ dài đường kính khoảng 0,8 cm, dài khoảng 15 cm. Chiếc bút bi ngày nay dù có nhiều thay đổi về hình dáng, xong cấu tạo cơ bản vẫn giống nhau. Cấu tạo của một chiếc bút bi khá đơn giản. Cơ bản gồm ba phần: vỏ bút, ruột bút và các bộ phận đi kèm. Đầu tiên là vỏ bút: phần bên ngoài, hình ống trụ, dài 14 – 15cm, chất liệu nhựa dẻo hoặc nhựa màu, trên thân thường in các thông số sản xuất. Kết đó là ruột bút: phần bên trong, làm từ chất liệu nhựa dẻo, chứa mực đặc hoặc mực nước. Ngoài ra còn có các bộ phận đi kèm bao gồm lò xo, nút bấm, đai ngoài vỏ – với những chức năng riêng. Mực bút bi thường được sản xuất từ một loại bột nhão chứa khoảng 25 đến 40 phần trăm thuốc nhuộm. Thuốc nhuộm phổ biến trong mực xanh lam (và đen) là xanh Phổ, xanh Victoria, tím methyl, tím pha lê và xanh phthalocyanine. Thuốc nhuộm eosin thường được sử dụng cho mực đỏ. Các loại mực thường có khả năng chống nước sau khi sấy khô.
Có thể phân loại bút bi dựa trên nhiều cơ sở khác nhau: hình dáng, màu mực, hãng sản xuất hay tỉ lệ và kích thước ngòi bút. Cách phân loại phổ biến nhất đó là: loại dùng một lần và loại có thể nạp lại mực. Loại dùng một lần chủ yếu được làm từ vàng dẻo hay nhựa cứng và bỏ đi khi dùng hết mực. Có thể có nắp bút để bọc đầu bi lại khi không dùng, hoặc dùng cơ chế lò xo để đẩy đầu bi ra. Loại có thể nạp lại mực thường được làm bằng kim loại hoặc nhựa có chất lượng cao và có giá thành cao hơn. Ống mực và đầu bi của loại nạp lại được gắn liền với nhau. Khi dùng hết mực thì cần phải thay đổi cả ống mực và đầu bi này.
Ngày nay, khi muốn thu hút người tiêu dùng, đặc biệt là học sinh bút có thể mang hình dáng ngộ nghĩnh hoặc trên thân bút có in hình các nhân vật truyện tranh. Để tăng tính sang trọng cho cây bút phục vụ người làm việc ở công sở, kinh doanh, bút có thể làm bóng, mạ màu vàng hay màu bạc sáng chói. Bút bi có loại dùng nắp đậy đầu bi để tránh làm khô mực, hỏng bút, lại có loại dùng đầu bấm để đầu bi thụt vào bên trong vỏ bút. Loại bút được dùng hiện nay là bút bi bấm…
Hiện nay do nhu cầu bút bi được sử dụng nhiều, bởi vậy đã có rất nhiều công ty sản xuất mặt hàng này. Trên thị trường ở trong nước ta phổ biến nhất là loại bút bi của công ty Bến Nghé và Thiên Long. Một chiếc bút có giả khá hợp lý, từ 3000 – 3500 đồng/một chiếc. Cũng có nhiều loại đắt hơn rất nhiều do bề ngoài được trang trí trang trọng.
Bút bi có tác dụng rất lớn, nó là vật không thể thiếu đối với học sinh, sinh viên và những người làm công việc viết lách. Nhờ có chiếc bút bi mà chúng ta có thể ghi lại những bài học, những ý tưởng, những bài văn, bài thơ hay đơn giản là ghi lại những thông tin cần chú ý ghi nhớ. So với bút mực, bút bi có ngòi bút viết trơn hơn, do đó người viết có thể viết tốc độ nhanh hơn lại không bị dây bẩn mực ra tay, chữ viết không bị nhòe. Nếu so sánh với bút máy, bút bi có nhiều ưu điểm hơn. Nó rất gọn nhẹ, giá thành rẻ hơn nhiều so với các loại bút ngòi. Khi sử dụng bút bi, người dùng có thể viết với tốc độ nhanh hơn. Chữ viết trên giấy mau khô, không bị thấm mực sang trang khác. Tuy nhiên, bút bi cũng có một vài nhược điểm. Việc viết chữ quá nhanh dễ làm nét chữ cứng, mất thanh, đậm. Chính vì vậy, bút bi chỉ được phép sử dụng cho đối tượng từ học sinh cấp hai trở lên. Các loại bút bi đa số chỉ dùng được một lần (đến khi hết mực), không thể tái sử dụng.
Tóm lại, bút bi là một loại đồ dùng vô tiện ích trong học tập, công việc. Dù thế giới ngày càng phát triển hơn, thì những chiếc bút bi sẽ vẫn còn được sản xuất khi con người vẫn cần đến nó.
Bút bi là một vật dụng gần gũi, gắn bó và vô cùng cần thiết trong đời sống con người. Bút bi không thể thiếu đối với những bạn học sinh đang ngày ngày cắp sách đến trường.
Advertisement
Cho đến nay, chưa ai biết chính xác thời gian chiếc bút ra đời. Từ xa xưa, ông cha ta thường dùng bút lông để viết rất bất tiện khi phải mài mực, chấm mực thường xuyên. Sau đó chiếc bút máy ra đời với nhiều ưu điểm hơn hẳn. Người sáng chế ra chiếc bút bi là một nhà báo người Hung-ga-ri tên là Bi-rô. Điều thôi thúc ông sáng chế ra chiếc bút bi là để thuận lợi cho công việc làm báo của mình vì bút máy làm giấy nhoè mực. Bi-rô nhận bằng sáng chế Anh Quốc vào năm 1938. Từ khi ra đời đến nay, chiếc bút bi luôn tục được cải biến để phù hợp hơn với người dùng và trở nên thông dụng trên toàn thế giới. Bút bi du nhập vào nước ta từ thế kỉ XX.
Chiếc bút bi có rất nhiều chủng loại phong phú và đa dạng nhưng phổ biến nhất là loại có nắp đậy và loại nút bấm. Nhưng dù là loại nào thì về cơ bản bút bi cũng có hai bộ phận chính là ruột bút và vỏ bút. Vỏ bút được làm bằng nhựa cứng với hình dạng, màu sắc rất phong phú nhưng đa phần là màu trong suốt để người viết nhìn thấy ruột bút bên trong. Vỏ bút có độ dài từ 14 đến 15 cm, hình thụ và thon dần về phía đầu bút. Vỏ bút có loại bề mặt trơn nhẵn, chỗ cầm để viết có khứa thành các rãnh ngang hoặc được lắp một lớp cao su để không bị trơn tay khi viết. Có loại có hình lục giác hoặc bát giác đều. Để góp phần làm cho chiếc bút bi đẹp hơn các cơ sở sản xuất thay đổi mẫu mã, màu sắc và các hoa văn trang trí để thu hút khách hàng. Với chiếc bút bi đậy nắp, vỏ bút thường có cấu tạo đơn giản. Vỏ bọc thường bằng nhựa hình trụ, chỗ tiếp giáp với tay người viết thường làm bằng cao su mềm hoặc rãnh mềm, tạo ma sát giúp việc cầm bút dễ dàng hơn. Nắp đậy ôm khít vào ngòi bút, ở đỉnh nắp có gắn một con chíp nhỏ có tác dụng bảo vệ ngòi bút. Nắp đậy còn có khuy cài để cài bút vào vở, sách, túi để bút không bị rơi. Riêng với loại bút có nút bấm thì phần đầu của bút bi gắn liền với bộ phận ruột bút bên trong gọi là lẫy bút. Khi viết, ấn vào phía đầu trên của bút bi thì ngòi bút sẽ ra, không muốn viết nữa thì ấn vào cái lẫy để ngòi bút thụt vào.
Bộ phận quan trọng nhất của chiếc bút bi là ruột bút. Ruột bút thường được làm bằng nhựa, dài từ 10 đến 12cm, dùng để đựng mực nên còn gọi là ống mực. Thông thường ruột bút có màu trong suốt để người viết có thể biết còn bao nhiêu lượng mực bên trong. Có những loại ống mực không trong suốt mà có màu trắng sứ với những đường kẻ màu bên trên để giúp người viết nhận diện được màu mực bên trong. Gắn với ống mực là ngòi bút. Đầu ngòi bút có gắn một viên bi nhỏ tầm 0,7 đến 1mm. Viên bi nhỏ đó có khả năng chuyển động đều, tạo ra khe hở cho mực thoát ra ngoài. Một số loại bút có phần lò xo nhỏ làm bằng kim loại hình xoắn ốc. Lò xo này kết hợp với đầu bấm ở cuối thân bút và hai gờ nhỏ trên ruột bút để điều khiển ngòi bút lộ ra hay thụt vào trong vỏ. Bút bi có nhiều loại mực: mực nước, mực khô, mực nhũ, mực dạ quang,… kiểu dáng ngày càng đẹp. Có chiếc bút có nhiều ngòi với nhiều màu khác nhau xanh, đỏ, vàng, đen, tím, hồng… rất tiện lợi cho người sử dụng. Một cây bút cũng giống như cơ thể con người vậy, ruột bút là phần bên trong cơ thể, đầu bi chính là trái tim và mực chứa trong bút được ví như máu, giúp nuôi sống cơ thể. Còn vỏ bút giống như đầu, mình, tứ chi vậy… chúng phải cứng cáp thì bút mới bền, hoạt động tốt cũng như tạo cho người sử dụng cảm giác thoải mái. Màu sắc và hình dáng bên ngoài giống như quần áo, làm tăng thêm vẽ đẹp cho bút. Các chi tiết của bút dù quan trọng hay thứ yếu đều góp phần tạo nên một cây bút, như một kiếp tằm rút ruột nhả tơ, âm thầm giúp ích cho đời.
Bút bi từ khi sáng chế đến nay ai cũng công nhận ưu điểm của nó. Chiếc bút bi viết nhanh, không mất thời gian bơm mực, mực khô nhanh, không nhoè, không dây bẩn ra sách vở. Tuy vậy vì viết nhanh nên bút bi làm chữ người viết có phần xấu đi nhiều so với viết bút mực. Do vậy mà học sinh cấp một, các thầy cô giáo vẫn bắt buộc học sinh phải dùng bút mực để luyện nét chữ cho thành thục rồi mới được sử dụng bút bi. Chiếc bút bi là một vật dụng cần thiết, là người bạn không thể thiếu đối với mỗi học sinh, sinh viên. Bút bi được dùng trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề: bút bi theo chân các kĩ sư đến với công trình kiến trúc, là phương tiện để các nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ thỏa sức sáng tạo, là chiếc cầu nối giúp học sinh tiếp cận bến bờ tri thức.
Chiếc bút bi có nhiều công dụng như thế, vì vậy cần phải bảo quản bút bi đúng cách để chiếc bút được bền lâu. Khi viết xong cần phải đậy nắp bút hoặc bấm nút để ngòi bút thụt vào bên trong, tránh dây mực ra xung quanh và ngòi bút được bảo quản. Cần tránh để rơi bút hoặc để đầu bút cắm xuống đất thì sẽ hỏng ngòi. Khi mua phải thử xem mực bút có ra đều không. Tránh để hỏng hóc hay mất mát thì nên để bút trong hộp bút hoặc ống bút. Khi chiếc bút lâu ngày không được sử dụng thì hãy ngâm vào nước nóng để mực ra đều. Chiếc bút bi có thể thay ngòi nên khi sử dụng hết mực thì chớ vứt cả bút đi mà chỉ nên thay ngòi mới để tiết kiệm chi phí.
Chiếc bút bi là người bạn nhỏ, luôn sát cánh đồng hành trong công việc, học tập của mọi người, không tốn kém nhiều chi phí lại có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh, điều kiện ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta hãy biết ơn những người đã chế tạo ra cây bút để nhờ đó chúng ta có sự hỗ trợ đắc lực trong học tập và trong công việc hiện nay vẫn đáp ứng được theo xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc ❤️️15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Văn Đặc Sắc Với Cách Viết Sinh Động Và Giàu Hình Ảnh.
Cùng tham khảo mẫu Dàn Ý Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc được chúng tôi chia sẻ đến bạn đọc sau đây.
Mở bài: Giới thiệu chung về địa danh và cảm nghĩ khái quát về địa đạo Vịnh Mốc
Thân bài: Giới thiệu khái quát về địa đạo Vịnh Mốc
Vị trí địa lí
Diện tích
Khung cảnh xung quanh
Giới thiệu về lịch sử hình thành: nguồn gốc và thời gian.
Giới thiệu về kiến trúc, cảnh vật ở địa đạo Vịnh Mốc
Ý nghĩa về lịch sử, văn hóa
Kết bài: Khẳng định lại một lần nữa giá trị, ý nghĩa của địa đạo Vịnh Mốc.
Xem Thêm Bài 🌹 Thuyết Minh Về Địa Đạo Củ Chi ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc Ở Quảng Trị giúp các em có thể trau dồi thêm cho mình vốn kiến thức lịch sử hay.
Địa đạo Vịnh Mốc là một công trình trí tuệ và sự nỗ lực phi thường của quân và dân Vịnh Mốc. Dưới mưa bom, bão đạn, trong điều kiện thiếu ánh sáng, thiếu phương tiện, họ đã làm nên một kỳ tích cho sự tồn sinh để sống và chiến đấu giành độc lập, tự do. Làng hầm ra đời đã tạc vào lịch sử của quân dân Vĩnh Linh- Quảng Trị một nét son rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Địa đạo Vịnh Mốc là một di tích tiêu biểu của hệ thống làng hầm Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.
Vĩnh Linh là huyện phía bắc tỉnh Quảng Trị, bị chia cắt làm đôi bởi vĩ tuyến 17 theo Hiệp định Geneva năm 1954. Từ năm 1965, đế quốc Mỹ mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại ở miền bắc Việt năm bằng không lực, thì mảnh đất Vĩnh Linh phía bắc sông Bến Hải trở thành túi bom, tuyến lửa của cuộc chiến. Trong khoảng thời gian trước khi Quảng Trị được giải phóng, từ 1965 đến 1972, mảnh đất chưa đầy 820 km2 của Vĩnh Linh phải chịu hơn nửa triệu tấn bom đạn, tính trung bình mỗi người dân phải chịu 7 tấn.
Hệ thống làng hầm – địa đạo Vĩnh Linh đã ra đời để người dân sống và chiến đấu trong hoàn cảnh mưa bom bão đạn. Hệ thống làng hầm này hình thành và phát triển ở khắp địa phương và Vịnh Mốc là tiêu biểu nhất.
Vịnh Mốc (xã Vĩnh Thạch) là một làng quê nằm trên một khu đồi đất đỏ sát bờ biển, cách thị trấn Hồ Xá của huyện Vĩnh Linh khoảng 14km về phía đông, cách Cửa Tùng 6km về phía bắc. Trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ, Vịnh Mốc là tiền đồn của miền bắc và cũng là điểm tập trung chi viện cho đảo Cồn Cỏ, hòn đảo có vị trí chiến lược quan trọng trong việc án giữ vùng biển Vĩnh Linh.
Hệ thống địa đạo Vịnh Mốc được xây dựng trong khoảng 2 năm, từ năm 1965 đến 1967. Đây là một hệ thống hầm ngầm sâu trong lòng đất. Địa đạo Vịnh Mốc gồm 3 địa đạo chính nối thông với nhau thành một hệ thống liên hoàn với tổng chiều dài trên 1700m. Địa đạo được cấu trúc 3 tầng, trong đó tầng trên cùng sâu 8-10m, tầng thứ 2 sâu 12-15m, tầng thứ ba sâu 23m; các tầng này và các nhánh được kết nối với nhau qua trục chính dài 780m.
Trong địa đạo có không gian sinh sống của người dân, kho vận vũ khí đạn dược – lương thực, cơ quan của Đảng và chính quyền, quân sự, các công trình công cộng (hội trường, nhà hộ sinh, trạm phẫu thuật, trạm thông tin…). Toàn bộ hệ thống có 13 cửa ra vào (7 cửa thông ra biển, 6 cửa đi lên đồi).
Đây là công trình được tạo dựng bằng sức lực và trí tuệ của quân và dân Vịnh Mốc, với 18.000 ngày công. Trong mưa bom bão đạn họ đã đào và vận chuyển 6000m3 đất đá để hoàn thành nên công trình kỳ vĩ và đặc biệt này.
Địa đạo đã chở che, bảo toàn mạng sống cho người dân Vịnh Mốc. Hơn thế, người dân nơi đây còn sống và chiến đấu, đánh giặc ngay trên quê hương của mình; tập kết vận chuyển vũ khí lương thực, cấp cứu thương binh, chi viện cho đảo Cồn Cỏ… Trong suốt thời gian tồn tại trong lòng địa đạo, người dân Vịnh Mốc không một ai bị thương và 17 em bé đã chào đời…
Trong gần 2000 ngày đêm trong lòng địa đạo, quân và dân Vịnh Mốc nói riêng cũng như Vĩnh Linh đã tạo nên một huyền thoại. Đó là huyền thoại về sức sống kỳ diệu và ý chí quả cảm của con người.
Hiện địa đạo Vịnh Mốc là địa danh ngày càng thu hút du khách trong nước và nước ngoài khi đến thăm Quảng Trị
Tham Khảo Bài ☀️ Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ☀️ 17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Chiến tranh đã đi qua và địa đạo Vịnh Mốc trở thành một di tích lịch sử cách mạng của Việt Nam.
Địa đạo Vịnh Mốc – một trong 114 địa đạo lớn nhỏ được đào trên toàn huyện Vĩnh Linh. 114 địa đạo này có tổng chiều dài gần 42km. Tuy nhiên đây là công trình tiêu biểu nhất so với 114 địa đạo. Địa đạo Vịnh Mốc ra đời không chỉ là nơi phòng tránh an toàn cho hàng trăm con người mà còn là trạm trung chuyển lương thực và vũ khí rất là quan trọng cho đảo Cồn Cỏ và chiến trường miền Nam. Địa đạo được khởi công đào từ năm 1966 cho đến năm 1967 hoàn thành.
Giữa cái nóng như rang của mùa hè Quảng Trị, bước chân vào lòng địa đạo là một cảm giác mát lạnh. Hệ thống gió thông thoáng và mát khiến du khách không khỏi ngỡ ngàng. Chính yếu tố đảm bảo thông hơi, thông khí một cách an toàn tuyệt đối, đảm bảo cho hàng trăm người sinh hoạt và chiến đấu trong lòng địa đạo là một yếu tố quan trọng nhất của địa đạo.
Đi sâu vào lòng địa đạo, dưới ánh đèn chiếu đủ sáng, du khách nhìn thấy rõ màu đất đỏ của vùng đất huyền thoại cũng như sự phân bố chính xác và khoa học đối với từng vị trí, nơi ở và sinh hoạt trong địa đạo.
Sức sống của công trình này chính là sức sáng tạo của người dân nơi đây đã làm nên sự khác biệt trong lòng địa đạo. Họ đã biến lòng đất thành những pháo đài vững chãi với 3 tầng liên thông. Tầng một cách sau mặt đất từ 12 đến 15m, là nơi nhân dân sinh sống. Tầng 2 sâu 18m là Trụ sở Đảng ủy, Ủy ban nhân dân và Bộ chỉ huy quân sự. Tầng 3 sâu 22m, dùng làm kho chứa hậu cần, cung cấp lương thực và vũ khí cho đảo Cồn Cỏ gần đó và phục vụ chiến đấu cho quân và dân địa đạo Vịnh Mốc.
Trong những năm chiến tranh gian khổ, để bảo toàn lực lượng và sẵn sàng chiến đấu, người dân và những chiến sĩ ở địa đạo thường không ra ngoài. Bởi, địa đạo bản thân nó đã là “một thế giới” riêng bảo đảm cho những sinh hoạt tối thiếu. Không ai có thể tưởng tượng được rằng trong một chiều dài trục chính với gần 2km, thời điểm đông nhất có khoảng 1.200 người sinh sống.
Ngày nay, địa đạo Vĩnh Mốc là một trong hơn 100 địa đạo còn nguyên vẹn của tỉnh Quảng Trị. Địa đạo Vịnh Mộc là di tích lịch sử văn hóa mang trên mình nhiều giá trị mà trong đó giá trị về giáo dục lịch sử, tinh thần yêu nước, ý chí quật cường và sự sáng tạo trong chiến đấu của cha ông là một bài học lớn nhất cho các thế hệ người Quảng Trị nói riêng, người Việt Nam nói chung.
Xem Thêm Bài 🌹 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ở Địa Phương Em❤️️ Ngắn Hay
Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc Ngắn Gọn và súc tích thể hiện qua từng câu văn, hình ảnh miêu tả chân thực và giàu cảm xúc.
Một làng quê thu nhỏ được người dân Vịnh Mốc kiến tạo bằng cuốc xẻng thủ công và sức người ngay dưới lòng đất. Dưới con đường hầm ngoằn ngoèo sâu hun hút, những căn hộ gia đình, nhà hộ sinh, nhà tắm, giếng nước, hội trường, hầm vũ khí… được xây dựng kỳ công, phục vụ cho cuộc sống người dân nơi đây trong chiến tranh.
Được ví như một huyền thoại, địa đạo Vịnh Mốc đã che chở cho người dân địa phương sống và chiến đấu an toàn trong chiến tranh.
Trong chiến tranh, với phương châm “Một tấc không đi, một ly không rời,” địa đạo Vịnh Mốc được đào từ năm 1965-1967 gồm 3 tầng, dài hơn 2.000m, có hệ thống 13 cửa ra vào với 7 cửa thông ra biển và 6 cửa đi lên đồi. Địa đạo đã che chở, bảo toàn mạng sống cho hàng ngàn người dân Vịnh Mốc, đặc biệt từ dưới lòng đất này đã đón 17 đứa trẻ ra đời an toàn.
Đây cũng chính là căn cứ địa cách mạng chi viện cho chiến trường và đảo Cồn Cỏ. Trong gần 2.000 ngày đêm tồn tại, có những lúc trong lóng địa đạo chứa khoảng 1.200 người. Dưới mưa bom bão đạn của chiến tranh ác liệt nhưng không một người dân nào bị chết tại địa đạo.
Tham Khảo Bài 💦 Thuyết Minh Về Lăng Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc❤️️15 Mẫu
Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc Hay Nhất được chúng tôi chọn lọc và chia sẻ rộng rãi đến các bạn đọc sau đây.
Giữa những năm bom đạn ác liệt, không ai có thể ngờ rằng lại có một địa đạo Vịnh Mốc – một thế giới sống và chiến đấu ở trong lòng đất, biệt lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài.
Địa đạo Vịnh Mốc là di tích lịch sử văn hóa mang nhiều giá trị lịch sử, giáo dục to lớn, là biểu tượng cho tinh thần yêu nước bất diệt, ý chí quật cường và sự sáng tạo của cha ông ta trong những năm kháng chiến. Đến thăm địa đạo Vịnh Mốc, du khách sẽ cảm nhận được sự chịu đựng gian khổ, sức sáng tạo không ngừng và tinh thần chiến đấu quả cảm của quân và dân Quảng Trị trong những năm chiến tranh.
Địa đạo Vịnh Mốc thuộc địa phận thôn Vịnh Mốc, xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị cách bãi tắm Cửa Tùng 7 km về phía Bắc. Từ thành phố Đông Hà, mất khoảng hơn 1 giờ chạy xe máy theo Quốc lộ 1A hướng ra phía Bắc rồi rẽ vào nhánh đường nhỏ xuống biển sẽ đến được địa đạo Vịnh Mốc. Trên con đường rợp bóng tre xanh mát, có lẽ ít ai biết được rằng ngay bên dưới chân họ là cả một hệ thống địa đạo, “một thế giới” ngầm của quân và nhân dân Vĩnh Linh trong suốt những năm kháng chiến từ 1965 đến 1972.
Vào những năm 1965, trước sự tàn phá của không quân và pháo binh Mỹ, vùng quê Vịnh Mốc bị hủy diệt hoàn toàn. Với ý chí “một tấc không đi, một ly không rời. Mỗi làng, xã là một pháo đài”, quân và dân Vĩnh Linh đã âm thầm chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất.
Địa đạo Vịnh Mốc là một trong 114 địa đạo lớn nhỏ được đào trên toàn huyện Vĩnh Linh. 114 địa đạo này có tổng chiều dài gần 42km. Trong rất nhiều căn cứ cách mạng trên “đất lửa” Quảng Trị thì hệ thống làng hầm địa đạo Vịnh Mốc là công trình tiêu biểu nhất cho ý chí quật cường, không chịu lùi bước trước kẻ thù xâm lược của cha ông.
Công trình được bắt đầu từ đầu năm 1965 và được hoàn thành vào ngày 18/02/1966 nằm trong lòng một quả đồi đất đỏ bazan chạy sát mép biển. Điều đặc biệt là vị chỉ huy công trình này (công trình sư) lúc bấy giờ học vấn của ông chỉ vừa hết tiểu học. (Hiện nay ông là cựu trung tá đang tá túc ở thành phố Đông Hà và bị mù do ảnh hưởng bởi vết thương trong chiến tranh.
Toàn bộ hệ thống đường hầm cấu trúc hình vòm có kích thước 0.9m x 1.75m, dài 2.034m, bao gồm nhiều nhánh thông với nhau qua trục chính dài 870m. Địa đạo có 13 cửa ra vào, trong đó có 6 cửa được thông lên đồi, 7 cửa thông ra hướng biển và 3 giếng thông hơi. Hơn nữa, các cửa hầm có cột gỗ để chống sập và sụt lở, được ngụy trang kín đáo, chếch theo hướng gió, đảm bảo thông thoáng.
Bước chân vào lòng địa đạo là một cảm giác mát lạnh. Hệ thống gió thông thoáng và mát khiến du khách không khỏi ngỡ ngàng. Chính yếu tố đảm bảo thông hơi, thông khí một cách an toàn tuyệt đối, đảm bảo cho hàng trăm người sinh hoạt và chiến đấu trong lòng địa đạo là một yếu tố quan trọng nhất của địa đạo.
Địa đạo Vịnh Mốc được đánh giá là công trình tiêu biểu của hệ thống làng hầm Vĩnh Linh. Các địa đạo được bắt đầu từ các giếng, sau đó toả ra các đường hầm. Các địa đạo thường chạy ngoằn ngoèo, theo hình chữ Z để tạo các khúc gấp vững chắc, dùng chính vách đất để chặn các đường đi của đạn bom nếu thả trúng.
Giới Thiệu Bài 💦 Thuyết Minh Về Nhà Tù Hỏa Lò ❤️️15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc Đặc Sắc mang đến cho các bạn đọc nhiều kiến thức lịch sử về nơi đây.
Địa đạo Vịnh Mốc là công trình kiến trúc quân sự kỳ vĩ dưới lòng đất, ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với khẩu hiệu “quân sự hóa toàn dân, công sự hóa toàn khu vực” quân dân Vĩnh Linh đã tiến hành đào hầm hào, với nhiều công năng: trụ sở, kho hậu cần, trường học, bệnh viện, khu vực sinh hoạt của từng gia đình…, được bố trí khắp các điểm dân cư, dọc đường đi, ven ruộng, bờ biển, được nối thông nhau bằng hệ thống giao thông hào chằng chịt thay cho đường trên mặt đất.
Tính từ cuối năm 1965 đến năm 1968 (theo thống kê chưa đầy đủ), toàn huyện Vĩnh Linh có 114 địa đạo với tổng chiều dài hơn 40km, hệ thống giao thông hào hơn 2.000km và hàng trăm tiểu đạo khác, trở thành những “làng hầm” – lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, thể hiện ý chí “một tấc không đi, một ly không rời” bám trụ chiến đấu bảo vệ quê hương và giữ thông mạch máu ra tiền tuyến.
Thuộc thôn Vịnh Mốc và thôn Sơn Hạ, xã Vĩnh Thạch, dài 1.060,25m (chưa bao gồm các ngách, căn hộ…); chiều cao đường hầm từ 1,7 – 1,8m, gồm có 13 cửa ra vào (có 6 cửa được thông lên đồi, 7 cửa thông ra hướng biển). Dọc hai bên đường hầm, có khoét các ngách nhỏ đủ sinh hoạt cho 2 đến 4 người. Trong hầm còn có hội trường (sức chứa từ 50 – 60 người), làm nơi hội họp, xem phim, biểu diễn văn nghệ… và một số công trình khác như: bảng tin, nhà hộ sinh, 3 giếng nước, nhà vệ sinh, trạm phẫu thuật, trạm xá, bếp nấu ăn (bếp Hoàng Cầm).
Hệ thống đường hầm và các công trình trong lòng đất của địa đạo Vịnh Mốc gồm 3 tầng: Tầng 1 có tổng chiều dài 421,82m, rộng từ 0,90m – 1,1m và chiều cao từ 1,6m – 1,75m, có độ sâu cách mặt đất 8 – 11m, đường hầm có dạng hình vòm, lòng đường, vách, trần đào khá phẳng… Tầng 2 có độ sâu cách mặt đất 11 – 15m, chiều dài 508,08m, cao từ 1,6m – 1,94m, rộng từ 0,8m – 1,1m. Đường hầm có dạng hình vòm cuốn với kết cấu đất đỏ bazan vững chắc..
Trục chính tầng 3 chạy chủ yếu theo hướng Nam rồi vòng qua hướng Đông, dài 130,35m, cao từ 1,6 – 1,74m, rộng từ 0,8 – 1,1m, trần hình vòm cuốn, sâu cách mặt đất từ 21 – 22,5m, có 2 giếng nước, 1 nhà tắm, 5 căn hầm được bố trí so le ở hai bên trục chính, 2 hệ thống cửa (10 và số 12) thông ra biển và cũng có hệ thống đường trục để nối giữa các tầng hầm với nhau.
Ngoài hệ thống đường hầm, địa đạo trong lòng đất, địa đạo Vịnh Mốc còn có các công trình trên mặt đất như: giao thông hào, ụ pháo, kè chắn sóng, nhà trưng bày…
SCR.VN Gợi Ý 💦 Thuyết Minh Về Cầu Hiền Lương Sông Bến Hải ❤️️15 Bài Hay
Văn Mẫu Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc Chọn Lọc giúp các em có thể học hỏi và trau dồi thêm cho mình nhiều kĩ năng viết hay.
Địa đạo Vịnh Mốc (thôn Vịnh Mốc, xã Kim Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) là một công trình quân – dân sự trong Chiến tranh Việt Nam của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm chống lại các cuộc tấn công của phía Việt Nam Cộng hòa và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Hệ thống địa đạo tồn tại ở phía Bắc sông Bến Hải, cầu Hiền Lương trong suốt những năm 1965-1972.
Sau khi quan sát địa hình, địa chất ở nơi đây, ông gợi ý Vĩnh Linh nên đào địa đạo như ở Củ Chi. Với phương châm: “Một tấc không đi, một li không rời. Mỗi làng, xã là một pháo đài”, thông qua chỉ thị của khu ủy Vĩnh Linh, đồn trưởng đồn công an vũ trang nhân dân 140 Lê Xuân Vy đã chỉ huy đơn vị và nhân dân địa phương nhanh chóng tiến hành đào địa đạo. Công trình được bắt đầu từ đầu năm 1965 và được hoàn thành vào ngày 18 tháng 02 năm 1966.
Điều đặc biệt là vị chỉ huy công trình Lê Xuân Vy này (công trình sư) lúc bấy giờ học vấn chỉ vừa hết tiểu học, và dụng cụ hiện đại nhất trong tay ông là chiếc la bàn cũ kỹ. Ðể bảo đảm cho hàng trăm con người ăn, ở, sinh hoạt an toàn, tiện lợi, dọc hai bên đường hầm người ta xây dựng rất nhiều căn hộ, mỗi căn hộ đủ chỗ cho ba đến bốn người ở. Trong lòng địa đạo có ba giếng nước, một hội trường (với sức chứa 50 người), bệnh xá, nhà hộ sinh, trạm phẫu thuật, bếp Hoàng Cầm, kho gạo, trạm đặt máy điện thoại…
Hai bên trục đường chính cách nhau từ ba đến năm mét lại khoét lõm sâu vào thành một hầm nhỏ, dùng làm nơi sinh hoạt của một gia đình. Ðịa đạo được cấu tạo thành ba tầng. Tầng một sâu cách mặt đất từ 12 đến 15 m, là nơi chiến đấu và trú ẩn tạm thời[3].
Tầng hai sâu 18 m là nơi sống và sinh hoạt của nhân dân, đóng trụ sở của Ðảng ủy, UBND và Bộ Chỉ huy quân sự. Tầng ba sâu 22 m dùng làm kho chứa hậu cần cung cấp cho đảo Cồn Cỏ và phục vụ chiến đấu của quân dân Vịnh Mốc.
Xem Thêm Bài 💦 Thuyết Minh Về Côn Đảo, Nhà Tù Côn Đảo ❤️️15 Bài Hay Nhất
Địa đạo Vịnh Mốc ở Quảng Trị còn gọi là Địa đạo Vĩnh Mốc, là một công trình biểu tượng của hệ thống làng hầm Vĩnh Linh được mệnh danh là lũy thép. Trong chiến tranh, Vịnh Mốc là nơi tập kết quân lực, vũ khí, hàng hóa chi viện cho bờ Nam và tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ. Vì thế nơi đây được coi là “tọa độ chết”, là mục tiêu của máy bay rải bom, pháo hạm từ ngoài biển. Thế nhưng, từ nơi tận cùng của sự hủy diệt ấy, bằng sức người và ý chí “một tấc không đi, một ly không dời”, người dân nơi đây đã làm nên những kỳ tích của thế kỷ 20.
Địa đạo có độ sâu từ 10 – 23m, rộng hơn 7ha. Hệ thống đường hầm cấu trúc hình vòm có kích thước 0.9m x 1.75m, dài 2.034m, gồm nhiều nhánh thông nhau qua trục chính dài 780m. Địa đạo có 13 cửa thông ra ngoài, trong đó 7 cửa thông ra biển, 6 cửa thông lên đồi, mỗi cửa được coi như một lỗ thông hơi.
Tại các cửa hầm có cột gỗ để chống sập và sụt lở, ngụy trang khá kín đáo, tất cả đều đào chếch theo hướng gió, đảm bảo thông thoáng. Nhờ đó đất sét trong lòng địa đạo ngày càng cứng hơn, nên cấu trúc địa đạo vẫn tồn tại gần như nguyên bản cho đến ngày nay.
Địa đạo gồm 3 tầng có độ sâu và chức năng khác nhau. Tầng 1 cách mặt đất 8 – 10m dùng để cơ động chiến đấu và trú ẩn tạm thời. Tầng 2 sâu 12 – 15m, là nơi sống và sinh hoạt của dân làng. Tầng 3 có độ sâu hơn 23m, là nơi tránh bom, đồng thời trung chuyển hàng hoá, vũ khí xuống thuyền ra đảo Cồn Cỏ. Ngay cả tầng 3 sâu nhất, vẫn còn cao hơn mực nước biển khoảng 5m, nên mọi sịnh hoạt trong địa đạo vẫn diễn ra bình thường vào mùa mưa.
Gọi là làng địa đạo Vịnh Mốc cũng được bởi nơi đây có thiết kế như một ngôi làng dưới mặt đất, dọc hai bên đường hầm được khoét sâu 1.8m và rộng 0.8m là những căn hộ gia đình, mỗi căn hộ đủ chỗ cho 3 – 4 người ở.
Được biết, trong đường hầm còn có hội trường với sức chứa hơn 50 người (dùng làm nơi hội họp, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim), 3 giếng nước sinh hoạt, kho gạo, bếp Hoàng Cầm (loại bếp nấu được dưới lòng đất mà hạn chế khói bốc lên), trạm gác, trạm đặt máy điện thoại, bệnh xá và phòng phẫu thuật, nhà hộ sinh, nhà tắm…
Chia Sẻ Bài 💦 Thuyết Minh Về Thành Nhà Hồ ❤️️15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Địa đạo Vịnh Mốc là một điểm đến du lịch độc đáo, hấp dẫn của tuyến du lịch nổi tiếng DMZ (khu phi quân sự) có một không hai của Việt Nam, thu hút rất nhiều du khách trong nước và quốc tế đến tham quan, nghiên cứu, trải nghiệm. Năm 2014, Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh được Thủ tướng Chính phủ công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt (Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31-12-2014).
Địa đạo Vịnh Mốc nằm trên địa phận thôn Vịnh Mốc và thôn Sơn Hạ, xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị; cách thành phố Đông Hà – trung tâm tỉnh lỵ Quảng Trị khoảng 38km về phía bắc; cách thị trấn Hồ Xá – huyện lỵ Vĩnh Linh khoảng 15km về hướng đông nam; cách UBND xã Vĩnh Thạch khoảng 3km về phía đông bắc.
Tên gọi địa đạo Vịnh Mốc: Đây là tên gọi một di tích lịch sử và là tên gọi của một làng quê miền biển Vĩnh Linh, Quảng Trị – làng chài Vịnh Mốc. Tên địa danh này được người dân địa phương ghép lại từ hai chữ “Vịnh” (vùng biển được tạo thành do 2 mũi đất là mũi Lay và mũi Si ăn sâu ra biển tạo thành một đường vòng cung); và từ “Mốc” tức là cột mốc được dựng để phân định ranh giới đất đai giữa hai thôn Vĩnh Ân và Thừa Luật.
Trong những năm chống Mỹ cứu nước, Vịnh Mốc không chỉ là địa đầu miền Bắc Xã hội chủ nghĩa mà còn là địa điểm thuận lợi cho việc tập kết lương thực, vũ khí tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ, một đảo có vị trí chiến lược quan trọng trong việc án giữ vùng biển Vĩnh Linh, cách Vịnh Mốc 28km về phía đông.
Địa đạo này được khởi công đào từ tháng 4 năm 1966 và cơ bản hoàn thành vào tháng 12 năm 1967. Trong thời gian gần 2 năm, với 18 ngàn ngày công đã vận chuyển khoảng 6.000m3 đất đá ra bên ngoài tạo thành một hệ thống địa đạo liên hoàn có tổng chiều dài đường hầm là 1.060,25m. Đây là một trong những địa đạo có cấu trúc, quy mô lớn về chiều dài lẫn độ sâu, cách mặt đất từ 10 – 23m; chiều cao đường hầm từ 1,6 – 1,9m, rộng từ 0,9 – 1,2m.
Từ trục chính toả ra nhiều nhánh, mỗi nhánh thông với một cửa ra vào. Địa đạo có tất cả 13 cửa ra vào, 7 cửa hướng ra phía biển và 6 cửa thông lên đồi. Hai bên trục đường hầm cứ cách 3 – 5m có những ô được đào sâu vào trong vách để tạo ra các căn hộ, nơi ở và sinh hoạt cho các gia đình.
Địa đạo chia làm 3 tầng: Tầng 1 là nơi sinh sống của nhân dân, có độ sâu cách mặt đất từ 8 – 10m, chiều dài 421,82m; tầng 2 là nơi đóng trụ sở của Đảng uỷ, Uỷ ban và Ban Chỉ huy lực lượng vũ trang (Đồn 140), có độ sâu cách mặt đất từ 12 – 15m, chiều dài 508,08m; tầng 3 chủ yếu là nơi cất dấu hàng hoá, vũ khí phục vụ cho công tác chiến đấu, chi viện cho đảo Cồn Cỏ và chiến trường miền Nam, có độ sâu cách mặt đất 20 – 23m, chiều dài 130,35m.
Mặt bằng đường hầm được đào nghiêng từ 20 – 30 để dễ dàng thoát nước. Trung tâm địa đạo có Hội trường với sức chứa khoảng 50 – 60 người, được coi là ngôi nhà chung của “Làng”, dùng cho hội họp, biểu diễn văn nghệ,… Ngoài ra, địa đạo Vịnh Mốc còn có đầy đủ những công trình thiết yếu để cho mọi người ổn định cuộc sống dưới lòng đất trong một thời gian dài như bếp, giếng nước, nhà hộ sinh – nơi đã chứng kiến sự ra đời của 17 đứa trẻ, trạm cấp cứu, phẩu thuật, nhà trẻ, nhà vệ sinh,…
Tất cả đều được bố trí, tạo dựng một cách hợp lý, khoa học. Phải khẳng định rằng việc chuyển mọi hoạt động vào lòng đất của quân và dân nơi đây là một nghệ thuật quân sự hết sức độc đáo và sáng tạo. Mỗi làng quê trở thành một pháo đài chống giặc, mỗi người dân đồng thời là một chiến sĩ với khẩu hiệu “tay cày, tay cấy, giặc đến chiến đấu, giặc đi sản xuất”.
Mặc dù phải thường xuyên đối mặt với những mối hiểm nguy và sự huỷ diệt của bom đạn Mỹ, lại phải sống và chiến đấu trong điều kiện vô cùng khắc nghiệt, thiếu dưỡng khí, thiếu ánh sáng tự nhiên, mùa đông thì ẩm thấp, mùa hạ thì ngột ngạt cùng với sự thiếu thốn đủ thứ từ lương thực, thực phẩm cho đến những nhu yếu phẩm thiết yếu.
Song, bằng ý chí và nghị lực phi thường quân và dân khu vực Vĩnh Linh vẫn luôn kiên trung, bất khuất và bền bỉ chiến đấu, trở thành tấm gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lập nhiều chiến công hiển hách, nổi bật là bắn rơi 293 máy bay, bắn chìm và cháy 69 tàu chiến các loại, đồng thời phối hợp với quân dân bờ Nam tấn công vào các căn cứ hoả lực mạnh của quân đội Việt Nam Cộng hoà và nhiều chiến công khác.
Nguyên gốc, hệ thống địa đạo này gồm 3 địa đạo chính: Địa đạo của Đồn Biên phòng 140 (Đồn Biên phòng Cửa Tùng bây giờ), địa đạo của quân dân Vịnh Mốc và địa đạo của quân dân Sơn Hạ. Sau đó, yêu cầu phối hợp chiến đấu và phục vụ chiến đấu, 3 địa đạo này được nối thông với nhau thành một hệ thống liên hoàn khép kín với quy mô khá lớn.
Xem Thêm Bài ❤️️ Thuyết Minh Về Vườn Quốc Gia Cát Tiên ❤️️ 15 Bài Hay Nhất
Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc Đơn Giản là tài liệu tham khảo hữu ích để các em có thể ôn tập và đạt điểm cao cho kì thi của mình.
Địa đạo Vịnh Mốc thuộc xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Đây là một công trình quân – dân sự trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Đó là cuộc chiến của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm mục đích chống lại các cuộc tấn công của phía Việt Nam Cộng hòa và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
Bạn hoàn toàn có thể di chuyển đến địa đạo dọc theo quốc lộ 1A, đến gần với Nghĩa trang Liệt sỹ huyện Vĩnh Linh thì rẽ trái, đi thêm khoảng 13km về phía biển là sẽ tới địa đạo Vịnh Mốc. Trên con đường ấy, có lẽ ít ai biết phía bên dưới chân họ đây là cả một hệ thống địa đạo rộng lớn, “một thế giới” dưới lòng đất của quân và nhân dân Vĩnh Linh trong suốt những năm kháng chiến từ 1965 đến 1972.
Ý chí “nhà nhà đào địa đạo”, “Địch càn, dừng đào; địch rút, tiếp tục đào” cùng với phương châm: “Một tấc không đi, một ly không rời. Mỗi làng, xã là một pháo đài”, các đơn vị cùng với nhân dân địa phương đã nhanh chóng tiến hành đào địa đạo để bảo vệ tính mạng của hàng trăm người dân nơi đây! Công trình này được tiến hành vào đầu năm 1965 và hoàn thành vào đầu năm sau đó.
Trong thời kỳ chiến tranh, nơi đây từng là điểm tiêu diệt của địch, những trận mưa bom từ trên không thả xuống, những nòng pháo đỏ hỏn bắn từ phía biển vào đầy ác liệt, có lẽ vì thế mà địa đạo được mệnh danh là vùng đất lửa với cái tên là “tọa độ chết”. Địa đạo được đào ở vùng đất đỏ bazan, chính vì thế mà không khí phía bên trong địa đạo càng làm cho phần đất sét cứng hơn, vì thế mà nơi đây cho đến ngày nay vẫn còn tồn tại được nguyên vẹn!
Đường hầm được thiết kế hình mái vòm với kích thước rộng 0.9 mét và cao 1.75 mét, tổng chiều dài lên đến hơn 2000 mét, với rất nhiều nhánh thông nhau, cứ cách 4 mét sẽ có một căn hộ gia đình nhỏ rộng khoảng 0.8 mét, sâu chừng 1.8 mét, có thể dành cho 4 người ở. Phía trong hầm còn có một hội trường nhỏ được dùng làm nơi hội họp, biểu diễn văn nghệ hay chiếu phim có thể chứa lên đến hơn 50 người.
Với cấu trúc 3 tầng riêng biệt: tầng 1 sâu đến 12 mét để chứa các cơ động chiến đấu và trú ẩn khi cần thiết, tầng thứ 2 sâu đến 15 mét, được sử dùng làm nơi ở và sinh hoạt của người dân. Tầng cuối sâu đến 23 mét, chủ yếu để chứa lương thực và vũ khí để cung cấp cho đảo Cồn Cỏ hoặc để sử dụng chiến đấu cho quân và dân địa phương.
Địa đạo Vịnh Mốc có 13 cửa ra vào khác nhau, trong số đó, có 6 cửa được thiết kế thông lên đồi, 7 cửa thông ra hướng biển cùng với 3 ống thông hơi. Địa đạo được ngụy trang kín đáo, đảm bảo thông thoáng kể cả trong mùa mưa, nước cũng không bị đọng lại, mọi sinh hoạt của người dân vẫn diễn ra bình thường, cư dân ở đây cũng ít khi ra ngoài trừ trường hợp cần thiết hoặc không có gì nguy hiểm.
Xem Thêm Bài 💦 Thuyết Minh Về Hồ Núi Cốc ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Địa đạo Vịnh Mốc – Ngôi làng trong lòng đất. Ẩn trong lòng quả đồi đất đỏ, đá ong nằm sát mép biển. Ngôi làng đặc biệt với đầy đủ sự sống trên mặt đất ấy được kiến tạo trong mưa bom, bão đạn đã trở thành kỳ tích đánh bại mưu đồ của đế quốc Mỹ xóa trắng một vùng quê trên bản đồ Việt Nam.
Năm 1965, Mỹ dựng lên sự kiện Vịnh Bắc bộ, leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Vĩnh Linh (Quảng Trị) – mảnh đất địa đầu giới tuyến là một trong những mục tiêu đánh phá hàng đầu của không lực Hoa Kỳ. Nhằm ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc cho miền Nam nên chưa đầy 7 năm (từ 1965-1967), đế quốc Mỹ đã rải xuống Vĩnh Linh hơn nửa triệu tấn bom, đạn các loại (bình quân mỗi người dân phải hứng chịu 7 tấn). Chúng âm mưu biến nơi đây thành vành đai trắng.
Với phương châm “Một tấc không đi, một li không rời. Mỗi làng xã là một pháo đài”, Khu ủy Vĩnh Linh đã chỉ thị cho đồn công an nhân dân 140 cùng dân địa phương khẩn trương đào địa đạo. Bằng chiếc la bàn cũ và trình độ vừa hết tiểu học, trưởng đồn Lê Xuân Vy đã chỉ huy quân và dân Vĩnh Linh chỉ trong vòng 2 năm, với 18.000 ngày công đã kiến tạo nên địa đạo Vịnh Mốc – một công trình huyền thoại, nơi sinh sống của hàng trăm con người (có lúc lên tới gần 1200 người) trong mưa bom, bão đạn của kẻ thù.
Sau khi hoàn thành vào năm 1967, hệ thống địa đạo có tổng chiều dài khoảng hơn 2000m, gồm 3 tầng. Tầng thứ nhất dùng để sinh sống, sâu 12m; tầng thứ hai được dùng làm nơi cất giữ lương thực, vũ khí và sinh hoạt chung sâu 15m; còn tầng dưới là nơi tránh bom cách mặt đất 23m (tầng này cao 3m so với mực nước biển).
Địa đạo Vịnh Mốc có tất cả 13 cửa hầm, trong đó có 6 cửa thông lên đồi có thêm tác dụng là lỗ thông hơi, 7 cửa còn lại thông ra biển là nơi vận chuyển hàng trăm chuyến hàng tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ. Cửa hầm lắp gỗ chống sập, thường xuyên được gia cố, lại được bố trí các khe thoát nước nên không sợ sụt lở hay nước mưa tràn vào hầm.
Ý chí ngoan cường không chịu khuất phục, sức sáng tạo vô hạn đã giúp quân dân Vĩnh Linh tìm ra con đường sống cho chính mình trước nguy cơ bị diệt vong.
Xem Thêm Bài 💧 Thuyết Minh Về Khu Di Tích Lịch Sử Pác Bó ❤️️15 Bài Hay Nhất
Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc Chi Tiết giúp các em có thêm nhiều kiến thức để làm bài văn của mình thật tốt.
Trong nhiều căn cứ cách mạng trên “đất lửa” Quảng Trị, thì hệ thống làng hầm địa đạo Vịnh Mốc là biểu trưng cho ý chí quật cường, không chịu lùi bước trước kẻ thù xâm lược của cha ông. Năm 1965, làng Vịnh Mốc đã bị hủy diệt hoàn toàn dưới sự đánh phá tàn khốc của không quân và pháo binh Mỹ.
Với ý chí “một tấc không đi, một ly không rời”, quân và dân Vĩnh Linh đã âm thầm chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất. Sau 18.000 ngày công gian khổ, các chiến sĩ Đồn Biên phòng 140 cùng với nhân dân Vịnh Mốc, Sơn Hạ đã đào và vận chuyển hơn 6000m3 đất đá kiến tạo nên một hệ thống làng hầm đồ sộ tại một quả đồi đất đỏ bazan ở phía nam làng Vịnh Mốc, sát với biển.
Toàn bộ hệ thống đường hầm cấu trúc hình vòm có kích thước 0.9m x 1.75m, dài 2.034m, bao gồm nhiều nhánh thông với nhau qua trục chính dài 870m. Địa đạo có 13 cửa ra vào, trong đó có 6 cửa được thông lên đồi, 7 cửa thông ra hướng biển và 3 giếng thông hơi. Hơn nữa, các cửa hầm có cột gỗ để chống sập và sụt lở, được ngụy trang kín đáo, chếch theo hướng gió, đảm bảo thông thoáng.
Mặt bằng của đường hầm địa đạo Vịnh Mốc được đào cao hơn 5m so với mực nước biển, nghiêng từ 8 – 120độ từ Nam về Bắc, từ Tây sang Đông để nước dễ thoát, không bị đọng lại trong địa đạo, mọi sinh hoạt vẫn diễn ra được bình thường kể cả vào mùa mưa. Nhờ đó mà đất sét trong hầm ngày càng cứng hơn khiến cấu trúc địa đạo Vịnh Mốc vẫn tồn tại gần như nguyên vẹn cho đến ngày nay.
Đây không chỉ là làng hầm chiến đấu đơn thuần như các công trình khác, mà còn là không gian sống ngầm của bộ đội và người dân địa phương. Họ đã biến lòng đất thành những pháo đài vững chãi với 3 tầng thông nhau. Tầng một sâu 8 – 10m dùng để cơ động chiến đấu và trú ẩn. Tầng 2 cách mặt đất từ 12 đến 15m là nơi sinh sống của dân làng. Tầng 3 sâu hơn 23m, dùng làm kho chứa lương thực và vũ khí cho đảo Cồn Cỏ cũng như phục vụ chiến đấu cho quân và dân địa đạo Vịnh Mốc.
Có thể nói rằng địa đạo Vịnh Mốc chính là một ngôi làng dưới mặt đất với các công trình như giếng nước sinh hoạt, kho gạo, bếp Hoàng Cầm, trạm gác, trạm đặt máy điện thoại, bệnh xá, phòng phẫu thuật, nhà hộ sinh, nhà tắm… Đặc biệt, dọc hai bên đường hầm khoét sâu 1.8m và rộng 0.8m thành những ô nhỏ, là những phòng dành cho hộ gia đình từ 3 – 4 người có thể sinh hoạt được. Bên trong hầm còn có một hội trường dùng làm nơi hội họp, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim với sức chứa lên đến hơn 50 người.
Đọc Thêm Bài 💧 Thuyết Minh Về Khu Di Tích Lịch Sử Tân Trào ❤️️ 15 Bài Hay
Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc Ngắn Hay được nhiều bạn đọc quan tâm và chia sẻ rộng rãi trên các diễn đàn văn học sau đây.
Để bảo toàn tính mạng, bám đất bám làng, đồng thời bảo đảm các trạm giao liên tiếp tế cho chiến trường miền Nam. Người dân Quảng Trị đã làm các hầm trú ẩn, tiêu biểu nhất là loại hầm chữ A. Nhưng từ những năm 1963-1965 do số lượng bom đạn dội xuống quá lớn nên hầm chữ A đã không còn hiệu quả.
Trong cái khó đó tình cờ Đồng chí Trần Nam Trung sau này là bộ trưởng bộ quốc phòng. Trong chuyến công tác ra Bắc đã ghé nơi đây và giới thiệu mô hình địa đạo Củ Chi. Năm 1966 nhận thấy chiến tranh ác liệt và sẽ còn hơn nữa nên khu ủy Vĩnh Linh đã cho triển khai đào địa đạo Vĩnh Mốc.
Vĩnh Linh đã huy động toàn nhân dân, dân quân cùng với lực lượng công an đồn 140 cùng thực hiện việc đào địa đạo. Với sự kiên trì và quyết tâm sau 18.000 ngày công đã đào và nối liền 1.701m đường địa đạo dưới lòng đất.
Địa đạo Vịnh Mốc gồm 13 cửa, 6 của thông lên đồi và 7 cửa thông ra biển, cùng đó là 3 giếng thông hơi. Toàn bộ địa đạo được chia thành 3 tầng. Tầng 1 cách mặt đất 12m, tầng 2 cách 15m và tầng 3 cách 23m. Các tầng nối với nhau bởi trục thông dài 870m.
Mặt bằng địa đạo được đào cao hơn 5m so với mức nước biển và nghiêng 8 – 120 độ để không bị động nước. Cùng với hệ thống thôn gió đảm bảo sự sinh hoạt bình thường cho cư dân bên trong.
Dọc hai bên đường hầm địa đạo người ta đào các ô dân sinh từ 2-3m² cho các gia đình từ 2-3 người ở. Tổng cộng bao gồm 94 ô dân sinh, một hội trường với sức chứa 50 người. Bên cạnh đó còn có bệnh xá, nhà hộ sinh, trạm phẫu thuật, kho gạo, bếp Hoàng Cầm, trạm điện thoại. Để phục vụ cuộc sống tiện lợi hơn người dân còn đào 3 giếng nước đủ sinh hoạt.
Xem Thêm Bài 💧 Thuyết Minh Về Yên Tử, Chùa Yên Tử ❤️️15 Bài Văn Hay Nhất
Văn Ngắn Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc đặc sắc nhất giúp các em có thể học hỏi thêm kiến thức và trau dồi thêm kĩ năng viết của mình.
Trong những năm tháng chiến tranh địa đạo Vĩnh Mốc từng là tọa độ chết, từng là mục tiêu hủy diệt của địch. Ngoài ra nó cũng là công trình trí tuệ và sự nỗ lực phi thường của quân và dân Vĩnh Mốc, dưới mưa bom bão đạn, điều kiện khó khăn về mọi mặt nhưng những con người ở nơi đây vẫn sống và chiến đấu hết mình để giành độc lập cho dân tộc.
Địa đạo Vịnh Mốc (thôn Vịnh Mốc, xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) là một công trình quân – dân sự trong Chiến tranh Việt Nam của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm chống lại các cuộc tấn công của phía Việt Nam Cộng hòa và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Hệ thống địa đạo tồn tại ở phía Bắc sông Bến Hải, cầu Hiền Lương trong suốt những năm 1965-1972.
Hệ thống địa đạo gồm có ba tầng: tầng thứ nhất sâu 12m dùng để sinh sống; tầng thứ cách mặt đất 15m được dùng để cất lương thực, vũ khí hay hội họp; tầng thứ ba sâu 23m dùng để tránh bom. Toàn bộ hệ thống địa đạo Vịnh Mốc có 13 cửa thông ra ngoài, trong đó có 7 cửa thông ra biển, 6 cửa thông lên đồi, mỗi cửa hầm được coi như một lỗ thông hơi.
Giới Thiệu Bài 💧 Thuyết Minh Về Đền Nghè ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc Xuất Sắc để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc với lối diễn đạt bài văn logic và hấp dẫn.
Địa đạo Vịnh Mốc Quảng Trị thuộc địa phận thôn Vịnh Mốc, xã Vĩnh Thạch, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị phương thức bãi tắm Cửa Tùng 7 km về phía Bắc. Từ thành phố Đông Hà, mất khoảng hơn 1h chạy xe máy theo Quốc lộ 1A hướng ra phía Bắc rồi rẽ vào nhánh đường nhỏ xuống biển sẽ đến được địa đạo Vịnh Mốc.
Trên con đường rợp bóng tre xanh mát, có lẽ ít ai biết được rằng ngay dưới chân họ là cả một hệ thống địa đạo, “một thế giới” ngầm của quân và nhân dân Vĩnh Linh trong suốt những năm kháng chiến từ 1965 đến 1972.
Giữa những năm bom đạn ác liệt, không ai có thể ngờ rằng lại có một địa đạo Vịnh Mốc – một thế giới sống và chiến đấu ở trong lòng đất, biệt lập trọn vẹn với thế giới bên phía ngoài.
Địa đạo Vịnh Mốc là di tích lịch sử văn hóa truyền thống mang nhiều giá trị lịch sử, giáo dục to to, là hình tượng cho tinh thần yêu nước bất diệt, ý chí quật cường và sự sáng tạo của cha ông ta trong những năm kháng chiến. Đến thăm địa đạo Vịnh Mốc, khách tham quan sẽ cảm thấy được sự chịu đựng gian khổ, sức sáng tạo không ngừng và tinh thần chiến đấu quả cảm của quân và dân Quảng Trị trong những năm chiến tranh.
Vào những năm 1965, trước sự tàn phá của không quân và pháo binh Mỹ, vùng quê Vịnh Mốc bị hủy diệt trọn vẹn. Với ý chí “một tấc không đi, một ly không rời. Mỗi làng, xã là một pháo đài”, quân và dân Vĩnh Linh đã lặng lẽ chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất.
Địa đạo Vịnh Mốc là một trong 114 địa đạo to nhỏ được đào trên toàn huyện Vĩnh Linh. 114 địa đạo này có tổng chiều dài gần 42km. Trong rất nhiều căn cứ phương thức mạng trên “đất lửa” Quảng Trị thì hệ thống làng hầm địa đạo Vịnh Mốc là công trình tiêu biểu nhất cho ý chí quật cường, không chịu lùi bước trước kẻ thù xâm lược của cha ông.
Công trình được bắt đầu từ đầu năm mới 1965 và được hoàn thành vào ngày 18/02/1966 tọa lạc trong lòng một quả đồi đất đỏ bazan chạy sát mép biển. Điều đặc thù là vị lãnh đạo công trình này (công trình sư) lúc bấy giờ học vấn của ông chỉ vừa hết tiểu học.
Toàn bộ đường hầm cấu trúc hình vòm có kích thước 0.9m x 1.75m, dài 2.034m, kể cả nhiều nhánh thông với nhau qua trục chính dài 870m. Địa đạo có 13 cửa ra vào, trong đó có 6 cửa được thông lên đồi, 7 cửa thông ra hướng biển và 3 giếng thông hơi. Hơn nữa, những cửa hầm có cột gỗ để chống sập và sụt lở, được ngụy trang kín đáo, chếch theo hướng gió, đảm bảo thông thoáng.
Mặt phẳng cào cao hơn 5m so với mực nước biển, nghiêng từ 8 – 120 độ từ Nam về Bắc, từ Tây sang Đông để nước dễ thoát, không bị đọng lại trong địa đạo, mọi sinh hoạt vẫn ra mắt được đôi lúc kể cả vào mùa mưa. Nhờ đó mà đất sét trong hầm ngày càng cứng hơn khiến cấu trúc địa đạo Vịnh Mốc vẫn tồn tại gần như nguyên vẹn cho đến ngày nay.
Bước chân vào lòng địa đạo là một cảm hứng mát lạnh. Hệ thống gió thông thoáng và mát khiến khách tham quan không khỏi ngỡ ngàng. Chính yếu tố đảm bảo thông hơi, thông khí một phương thức an toàn và đáng tin cậy tuyệt đối, đảm bảo cho hàng trăm người sinh hoạt và chiến đấu trong lòng địa đạo là một yếu tố quan trọng nhất của địa đạo.
Đi sâu vào lòng địa đạo, dưới ánh sáng của đèn chiếu đủ sáng, khách tham quan nhìn thấy rõ màu đất đỏ của vùng đất huyền thoại cũng như sự phân bố đúng chuẩn và khoa học nếu với từng vị trí, nơi ở và sinh hoạt trong địa đạo.
Đây không chỉ là làng hầm chiến đấu đơn thuần như những công trình khác, mà còn là không gian sống ngầm của bộ đội và người dân địa phương. Họ đã biến lòng đất thành những pháo đài vững chãi với 3 tầng thông nhau. Tầng một sâu 8 – 10m dùng để cơ động chiến đấu và trú ẩn. Tầng 2 phương thức mặt đất từ 12 đến 15m là nơi sinh sống của dân làng. Tầng 3 sâu hơn 23m, dùng làm kho chứa lương thực và vũ khí cho đảo Cồn Cỏ cũng như phục vụ chiến đấu cho quân và dân địa đạo Vịnh Mốc.
Có thể nói rằng địa đạo Vịnh Mốc này là một ngôi làng dưới mặt đất với những công trình như giếng nước sinh hoạt, kho gạo, bếp Hoàng Cầm, trạm gác, trạm đặt máy Smartphone, bệnh xá, phòng phẫu thuật, nhà hộ sinh, phòng tắm..
Chia Sẻ Bài 🌹 Thuyết Minh Về Dinh Độc Lập ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Địa Đạo Vịnh Mốc Ngắn Nhất sẽ giúp các em có thể học hỏi cách dùng từ ngữ linh hoạt và sinh động.
Địa đạo Vịnh Mốc là di tích lịch sử tiêu biểu nằm trong cụm di tích “ Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh” đã được thủ tướng chính phủ công nhận là di tích quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2408/QĐ – TTG ngày 31 tháng 12 năm 2014.
Sự ra đời và tồn tại của địa đạo Vịnh Mốc trong những năm chiến tranh ác liệt đã không chỉ đáp ứng yêu cầu đảm bảo an toàn và duy trì sự sống của con người vùng tuyến lửa mà còn có vai trò quan trọng trong công tác chiến đấu, phục vụ chiến đấu, chi viện cho đảo Cồn Cỏ và chiến trường Miền nam; góp phần đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, cùng cả nước thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Đây là một hình thức phòng tránh hoàn thiện và có hiệu quả cao nhất, thể hiện một nghị lực phi thường, tinh thần kiên cường, bám trụ và là một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Địa đạo Vịnh Mốc có chiều dài đường hầm 1.060,25m (chưa bao gồm các ngách, căn hộ…); chiều cao đường hầm từ 1,7 – 1,8m, gồm có 13 cửa ra vào (có 6 cửa được thông lên đồi, 7 cửa thông ra hướng biển). Địa đạo Vịnh Mốc được chia thành 3 tầng: Tầng 1, sâu cách mặt đất từ 8 – 10m, có chiều dài 421,82m; tầng 2, sâu cách mặt đất từ 12 – 15m, dài 508,08m; tầng 3, sâu cách mặt đất 20 – 23m, dài 130,35m.
Địa đạo Vịnh Mốc là công trình, thể hiện trí tuệ, nghị lực phi thường, ý chí và lòng quyết tâm của quân dân Vịnh Mốc, Sơn Hạ và lực lượng Đồn Công an vũ trang 140. Địa đạo Vịnh Mốc không đơn thuần chỉ là nơi để con người ẩn nấp phòng tránh bom đạn của kẻ thù, mà đây còn là nơi để nhân dân và các lực lượng vũ trang đóng trên địa bàn có thể vận dụng một cách linh hoạt, hợp lý và khoa học để đánh trả có hiệu quả các cuộc tấn công của kẻ thù, góp phần đáng kể cùng với quân và dân cả nước hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước.
Đây là công trình kỳ vĩ, mang tính kiến trúc nghệ thuật cao và là một di sản lịch sử, văn hóa đặc thù, độc đáo có ý nghĩa vô cùng to lớn trong giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng và khai thác du lịch.
Tặng Bạn 🌵 Thẻ Cào Miễn Phí ❤️ Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Vịnh Hạ Long 4 Dàn Ý &Amp; 18 Bài Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8 trên website Efjg.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!